Thương nhớ

Người Cha Kính Yêu Của Tôi

Hồi ký

Nguyễn Minh Đào

                                               

 

     Bài này tôi viết về người cha kính yêu của tôi (là dân Nam Bộ tôi gọi bằng ba). Những năm dài gia đình tôi sống trong cảnh khốn khó nước nhà loạn lạc khi thực dân Pháp trở lại xăm lược nước ta lần thứ hai và trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ đầy hy sinh gian khổ. Ba tôi là trụ cột chống đỡ gia đình vượt qua mọi gian khó đến ngày thống nhất đất nước. Xin chia sẻ các bạn.

*

     Quê tôi xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, thời Pháp thuộc là làng Nhơn Hưng, tổng Qui Đức, quận Tịnh Biên, tỉnh Châu Đốc. Trước chiến tranh gia đình tôi thuộc tầng lớp trung lưu, trong nhà có kẻ ăn người ở, nhà trong xóm chùa Long Hòa ấp Đông Hưng. Ba tôi là thương buôn mua bán hàng chuyến và khai mở đất hoang làm ruộng hàng chục mẫu ở Bàu Cò - Campuchia giáp biên giới, có đàn bò cày kéo cả chục con.

     Năm 1944 chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, phát xít Nhật vào chiếm đóng nước ta. Mấy năm nay nước lớn mất mùa ba tôi không còn làm ruộng, đàn bò dần dần bán hết, cuộc sống gia đình bắt đầu sa sút trong nhà không còn kẻ ăn người ở. Một hôm ba tôi mượn xe bò dọn đồ đạt trong nhà chở ra kinh Vĩnh Tế cất nhà xóm Cây Mít bà con bên nội tôi. Ba tôi thuê người giúp việc mua da bò tươi muối bán cho thương lái chở đi Sài Gòn, việc làm ăn xem chừng khá phát đạt không bao lâu không biết vì sao ba tôi không làm nữa. Đêm nọ nhà tôi bị kẻ trộm đào ngách vào nhà lấy cắp bộ lư đồng và một số quần áo, vật dụng đến sáng mới hay.

     Những năm tháng gia đình tôi sống ở đây tuy mức sống không sung túc như trước, vẫn khá hơn nhiều gia đình trong xóm. Ba tôi do việc làm ăn lâu nay giao tiếp khá rộng trong giới trung lưu và một số quan chức làng xã. Ở xóm Cây Mít kiến họ Nguyễn anh em ba tôi được thiên hạ nể trọng.

     Mùa Thu năm 1945 chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Cách mạng tháng Tám thành công, Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập Ba Đình Hà Nội. Những tháng ngày nước nhà được độc lập tự do thật ngắn ngũi! Giặc Pháp trở lại xăm lược nước ta lần thứ hai, ngày 23 tháng 9 năm 1945 tiếng súng kháng chiến của quân dân Nam Bộ nổ khắp nơi, làng quê tôi ngập chìm trong khói lửa chiến tranh…!

     Cuộc sống gia đình tôi rất túng quẫn! Mùa nước năm ấy ba tôi hàng ngày chống xuồng lên đồng trên hướng giồng Bà Ca đặt lờ bắt cá sặt bán sống qua ngày! Mỗi sáng tinh mơ ba tôi xuống xuồng ra đi đến tối mịt mới về, nghe tiếng xuồng khua dưới bến, má và chị em tôi xuống bến mừng ba tiếp ba bắt cá. Hôm nọ, ba tôi ra đi khoảng 7 – 8 giờ sáng nghe tiếng súng nổ rộ trên đồng hướng ba đi, cả nhà và cô bác trong xóm biết có chuyện chẳng lành rất lo lắng, nhìn lên đồng trông ngóng…! Tiểng súng dứt đã lâu không thấy ba về, ai cũng đoán ba vị Tây bắn chết hay bị bắt. Má tôi nhờ bà con chống xuống đi tìm. Thời gian nặng nề trôi qua cả nhà đứng ngồi không yên, chị em tôi khóc, má cũng khóc! Đến tối bà con tìm ba tôi về chở theo chiếc xuồng của ba bị Tây bắn bể, nhưng tìm không thấy ba đâu, hy vọng ba còn sống bị Tây bắt. Má tôi vào Tịnh Biên gặp ông Bảy Lễ là thương gia bạn của ba có quen biết quan chức ở Cao Miên nhờ ông lên đó dọ tin, được biết ba bị Tây bắt. Má tôi vay mượn tiền làm chi phí nhờ ông Bảy Lễ lo lãnh ba tôi về.

     Giặc Pháp ra sức càn quét đánh phá vẫn không bình định được quê tôi, làng xóm xơ xác tiêu điều vườn không nhà trống! Gia đình tôi tản cư về rạch Thâm Rôn xã Hòa Lạc huyện Phú Tân ngày nay, cùng với gia đình ngoại. Riêng chị Hai Nguyễn Thị Phò, bí danh Nguyễn Thị Hồng Phương là cán bộ cách mạng ở lại quê nhà hoạt động.

Ở Hòa Lạc, gia đình tôi lúc đầu trú tạm chuồng bò cũ nhà ông Mười bà con với ngoại tôi. Cảnh tản cư ăn nhờ ở đậu cực khổ trăm bề! Ba má tôi xin tre cất căn nhà nhỏ trên bờ sông Hậu gần vàm rạch Thâm Rôn về phía Châu Đốc, gia đình tôi sống chen chút trong căn nhà đó trong cảnh nghèo túng! Ba tôi làm đủ nghề kiếm sống, có lúc nấu rượu lậu, làm hàng heo… Ba là người tháo vát giỏi gian, nhờ đó gia đình tôi đủ sống qua ngày!

     Đầu năm 1947 làng Hòa Lạc mắc dịch bệnh đậu mùa, có một số người chết, gia đình tôi không thoát khỏi dịch bệnh quái ác đó! Người đầu tiên nhiễm bệnh là chị Ba tôi, sau đó lần lượt hết người này đến người khác đều nhiễm bệnh nặng nhẹ khác nhau. Ba tôi rước ông thầy thuốc Bắc ở làng Khánh Hòa chữa trị khỏi cả. Điều kỳ lạ là chị Hai tôi đang hoạt động cách mạng ở quê nhà cũng bị nhiễm bệnh cùng thời điểm với gia đình, cậu Hai tôi chở chị bằng xuồng ra rạch Thâm Rôn cho ba má tôi lo chữa trị. Khi ông thầy thuốc khám bệnh cho chị, ông nói với ba má tôi những gì tôi không biết, nhìn nét mặt lo âu của ba má, thấy má khóc lén, tôi biết bệnh chị rất nặng! Tôi vào buồng thăm chị, thấy chị nằm trên lá chuối tươi cơ thể một màu thâm đen! Vài hôm sau chị Hai tôi vĩnh biệt cõi đời ở tuổi 18!

     Chị Hai tôi mất là nỗi đau thương lớn đối với gia đình tôi! Chôn cất chị xong, ba tôi dỡ bỏ căn nhà cũ dời về cất lại phía trên đó vài chục thước. Những tháng ngày đó gia đình tôi sống dằn vặt trong đau buồn! Ba tôi chiều chiều lấy rượu giải sầu, khi uống say ngủ vùi, thỉnh thoảng thấy ba trở mình kêu trời, gọi tên chị Hai tôi khóc! Lúc này ba tôi thường đi làm ăn vắng nhà, chị em tôi quay quần bên má, nhiều lúc thấy má ngồi thẫn thờ bất động nhìn đăm đăm khoảng không nào đó nước mắt lưng tròng!

     Đêm nọ đang ngủ nghe chị Ba khóc nói với má, chị chiêm bao thấy chị Hai tóc để xõa, mặc quần áo trắng đứng trên đầu nằm nói với chị: “Thương ơi! Em hãy nối gót theo chị…”. Nghe chị Ba nói chị em tôi khóc, má cũng khóc! Đêm nọ chị em tôi vào chổ ngủ, ba đi vắng, má nằm võng ru em thứ Bảy tôi tên Nguyễn Minh Nhị ngủ, bên ngoài trời tối mịt mùng gió thổi ào ào, sắm chớp liên hồi báo hiệu trời sắp đổ mưa. Bổng nghe ông Chín Gia ở gần nhà gọi má tôi: “Ba ơi! Bây coi có ai ngồi trên nóc nhà bây trồi lên thụt xuống kìa!”. Nghe ông Chín nói chị em tôi sợ phát khiếp, nằm ôm nhau nhìn lên nóc nhà sợ có ai từ trên đó tụt xuống, thầm van vái chị Hai: “Chị sống khôn thác thiêng đừng hiện về nhát chúng em…!”. Má đặt em Nhị nằm xuống võng bước ra ngoài nhìn lên nóc nhà. Thì ra, “người trồi lên tụt xuống” trên đó là tấm lá xấp nóc bị gió thổi làm bung một đầu dây lạt buột, gió thổi mạnh tấm lá bật lên, gió hết thổi tấm lá nằm xuống. Ông Chín già mắt kém trông gà hóa quốc!

     Cuộc sống gia đình tôi ở đây ngày càng túng quẫn! Ba đưa cả nhà vào sống trong ngọn cùng rạch Thâm Rôn có nhiều tôm cá, đất rộng người thưa dể kiếm sống. Ba tôi làm rạch, làm đìa, chất chà bắt cá; có lúc nuôi tằm, trồng rẫy… làm việc gì ba tôi cũng thạo, gia đình nhờ đó đở thiếu thốn. Vùng này đất đai mầu mở, lúa gạo không thiếu, tôm cá dư thừa, nhưng phần đông dân rất nghèo, vì làm được đồng tiền không dễ, có tiền cũng không có gì mua. Vải mặc, xà bông, dầu thắp sáng… rất khan hiếm dù cách chợ Châu Đốc không xa. Nhà nào cũng có chấy rận, đi đâu cũng thấy người ăn mặc rách rưới; thậm chí mặc quần áo bằng bố gai, hay đệm bàng. Khi giở chà hay tát đìa bắt cá tôi thấy có những người đàn ông cởi truồng tồng ngồng, dù nơi đó có đàn bà con gái cũng mặc!

     Dường như biết trước tình cảnh này, những năm trước bà ngoại tôi may mùng ngủ bằng vải tám, là loại vải thô nhuộm vỏ cây dà rất dày dặn bền chắc, bà ngoại đem mùng may quần áo cho con cháu mặc. Có lần ba tôi đi bán kén tằm mua về một số vải may quần áo cho cả nhà mỗi người một bộ, má và chị Ba tôi “sang” nhất được may vải sen đầm đen, phần tôi được má cắt may một bộ quần áo tay ngắn bằng vải sọc ca-rô.

     Những tưởng gia đình tôi được sống bình yên lâu dài nơi đây, nào ngờ thời cuộc đẩy đưa Việt Minh – Hòa Hảo xung đột bắn giết nhau. Tôi nghe nói ngoài sông cái thường thấy xác người trôi lờ đờ, có khi một cây tre xỏ xâu hai ba xác! Ở làng Hòa Lạc chưa nghe thấy vụ giết người nào, nhưng dường như có gì đó không bình thường. Một buổi chiều tôi thấy có mấy người cùng xóm đến nhà nói chuyện gì đó với ba tôi, trong khi ba đào đất trồng bụi tre làm như ăn ở lâu dài nơi đây, nhưng đến nửa đêm ba má đánh thức chị em tôi âm thầm thu dọn đồ đạt xuống chiếc ghe nhỏ, cả nhà ra cửa rạch Thâm Rôn về quê nhà. Ba tôi cho biết gia đình may mắn tránh một tai họa có thể xãy ra!

     Ba đưa gia đình về ở xóm Bến Lúa trên bờ kinh Vĩnh Tế. Lúc này giặc Pháp chưa tái lập xong bộ máy cai trị, lực lượng cách mạng làm chủ ban đêm, ban ngày làm chủ những nơi có địa hình thuận lợi xa thị trấn, thị tứ, đường giao thông. Những nơi có đồng bào theo đạo Phật giáo Hòa Hảo tản cư hết ra Châu Đốc, hay vùng do Hòa Hảo kiểm soát. Xóm Bến Lúa hầu hết dân có đạo Hòa Hảo cả xóm không một bóng người, chỉ có gia đình tôi trú ngụ nhà cô Tám em ba tôi là tín đồ đạo Hòa Hảo, cô có hai người con trai làm “đại đội Hòa Hảo”. Đây là vùng “xôi đậu”, lực lượng Dân xã - Hòa Hảo thường tới, họ biết gia đình tôi bà con với cô Tám không nói gì!

     Thời kỳ đầu cách mạng, quan điểm đường lối chánh sách của Đảng và Bác Hồ chưa quán triệt đến mọi cá nhân và tổ chức, nên bộc phát những hành vi manh động. Sự xung đột “nồi da xáo thịt” Việt Minh - Hòa Hảo, tôi nghĩ có bàn tay bọn Phòng nhì Pháp và có thể còn do bối cảnh ấy! Hồi đó, quê tôi có ông Tư Hỷ người cùng xóm gia đình ngoại theo vai vế tôi gọi bằng cậu. Ông theo cách mạng từ những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, chỉ huy một đơn vị Quốc vệ đội (như Công an vũ trang ngày nay) chừng một trung đội. Người ta gọi ông là “bà cố Hỷ” vì ông rất táo tợn trong hoạt động “trừ gian diệt ác” giết người không gớm tay! Người dân xem ông như “hung thần”, khi bất hòa họ chưỡi nhau “bà cố Hỷ bắt mày!”.

     Khi gia đình tôi từ làng Hòa Lạc về ở xóm Bến Lúa, một đêm nọ trời vừa sụp tối nghe mấy loạt súng nổ đầu trong xóm đạn bay vèo vèo, cả nhà nằm dưới đất tránh đạn nghe ngóng không biết chuyện gì! Một chập sau có tiếng nhiều người nói chuyện ồn ào kéo tới, thì ra đơn vị Quốc vệ đội của “bà cố Hỷ”. Gặp ba má tôi, ông Tư Hỷ và mấy người quen chào hỏi tiếp tục kéo ra xóm Bà Bài, lâu lâu nghe tiếng súng của họ vọng lại, độ một giờ sau thấy ánh lửa cháy rực từ xóm Bà Bài lần vào, thì ra họ đốt nhà dân! Khi đốt đến nhà cô Tám tôi ông Tư Hỷ nói: “Không đốt nhà này để anh chị Sáu ở”. Hồi ấy, trên kinh Vĩnh Tế thường thấy có ghe người Chăm ở Châu Phong hồi đó gọi Chà Và đi mua bán gạo và đệm bàng, bị ông Tư Hỷ bắt mấy ghe gần 10 người có cả đàn bà và trẻ con, gán họ tội “làm do thám cho Tây”! Họ bị trói, bịt mắt dẫn lên đồng xóm Bến Lúa gần biên giới giết sạch, hàng hóa tịch thu, ghe bị đốt. Đêm sau có ghe chưa chìm trôi lờ đờ theo con nước lớn ròng, lửa cháy bập bùng như hồn ma người chết hiện về kêu khóc oán than! Năm 1949 hay 1950 gì đó tôi nghe nói ông Tư Hỷ làm tướng cướp bị cách mạng trừng trị!

     Về ở xóm Bến Lúa gia đình tôi trắng tay, má tôi làm bánh nấu xôi chở trên chiếc xuồng bằng cây thốt nốt mượn của ai đó bơi đi bán kiếm sống. Ba tôi là người năng nổ, ở đâu ba cũng tìm cách làm ăn cho vợ con đở vất vả thiếu thốn. Ba thấy ở đầu trong xóm Bến Lúa có con rạch Xẻo Tre nhiều cá, ba xin phép giới chức Hòa Hảo và Việt Minh làm rạch. Ba dẫn tôi vào vườn nhà chặt tre làm đăng và vay mượn tiền của bà con mua sắm các thứ khác, khi nước xuống ba tôi xây rọ bắt cá. Năm ấy ba tôi trúng mùa cá, bán cá trả hết nợ còn dư một số tiền, gia đình thoát cảnh nghèo túng. Ba tôi giao dàn đăng và nhượng quyền làm rạch cho chú Chín Hiến – em ba tôi. Sau này tôi hỏi “Sao ba không làm rạch nữa?” Ba nói: “Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”, nghề này giết hại nhiều sanh linh, dù là tôm cá cũng tội lắm con ơi!”

     Những năm 1954 – 1956, các tỉnh miền Tây Nam bộ giáo phải Hòa Hảo, Cao Đài cát cứ tồn tại song song chánh quyền Sài Gòn. Năm 1954 tôi đi tập kết Cà Mau trở về quê, ngồi trên xe từ Rạch Sỏi về Châu Đốc phải dừng nhiều lần các trạm gác của Hòa Hảo đóng tiền “nguyệt liễm” rất phiền phức. Nhìn hai bên đường cảnh vật vùn vụt trôi về phía sau lòng tôi bồn chồn lo lắng, suy nghĩ vẫn vơ không biết cuộc sống bản thân và gia đình tôi rồi sẽ ra sao!? Con đường đấu tranh cách mạng sẽ tiếp tục như thế nào…!?

     Bao năm tham gia kháng chiến góp phần bé nhỏ vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do cho dân tộc, đến ngày hòa bình trở về quê nhà, gia đình tôi không nhà ở, không tiền bạc, không biết làm gì sinh sống phải ăn nhờ ở đậu! Một số bà con bên nội không cảm thông chia sẻ, mà còn dè bỉu lời ong tiếng ve coi khinh ba má tôi: “Theo Việt Minh để ngày nay nghèo khổ như vậy đó, gia đình ly tán, con mỗi đứa mỗi nơi…!” Bà cô thứ Tám tôi còn nói: “Thằng Đáo (tên thật tôi) theo Việt Minh rất uổng, như thằng Dể mà còn làm thiếu úy” (con của cô làm sĩ quan quân đội Sài Gòn).

     Gia đình tôi dọn về sống với ông bà ngoại, ba tôi nhờ mối quan hệ quen biết viên chức chánh quyền Sài Gòn làng xã tranh thủ họ giúp làm thẻ căn cước tạo thế hợp pháp cho tôi và thông qua mối quan hệ quen biết giới chức trong Ban trị sự Phật giáo Hòa Hảo làng Nhơn Hưng vận động cho tôi dạy học ở ngôi trường gần chùa Hòa Thạnh ấp Tây Hưng cách nhà tôi gần một cây số, do bà con trong ấp góp công sức dựng lên bằng cây lá. Tôi là giáo viên duy nhất dạy ba lớp, từ lớp năm đến lớp ba tiểu học với ba bốn mươi học trò. Ban trị sự Phật giáo Hòa Hảo xã trả lương tháng cho tôi 100 kg gạo và 400 đồng tiền Bảo Đại giúp gia đình thoát cảnh chạy ăn từng bữa.

     Được vài tháng chánh quyền Sài Gòn đánh đổ giáo phái Hòa Hảo, tôi tiếp tục dạy học như trường tư, tùy lòng hảo tâm cha mẹ học sinh đóng học phí, mức thu giảm nhiều. Năm 1955 chánh quyền Sài Gòn đổi giấy căn cước, chi bộ xã đưa tôi làm thơ ký trong đoàn đổi giấy căn cước quận Tịnh Biên để làm giấy căn cước cho cán bộ kháng chiến cũ. Được đi lại nhiều nơi trong quận có công xa đưa đón, tiếp xúc với nhân viên chánh quyền, thế họp pháp của tôi được củng cố vững vàng hơn. Tạo được “vỏ bọc” tôi bắt đầu tham gia công tác do chi bộ xã lãnh đạo.

     Khi ấy, gia đình tôi từ kinh Tám Ngàn trở về quê nhà cuộc sống nghèo khó, ba tôi xoay sở làm ăn liên tiếp thất bại, nợ nần chồng chất! Má tôi làm bánh, nấu xôi giải nắng dầm mưa gánh bán rong đầu làng cuối xóm, chắt chiu từng đồng lo toan cuộc sống gia đình! Tôi cùng anh rể thứ Ba và các em tôi tới mùa đi cắt lúa mướn, hay trồng rẫy khoai, dưa… Làm bất cứ việc gì bằng sức lao động của mình, những mong chia sẻ phần nào gánh nặng cuộc sống gia đình với ba má tôi.

Một hôm, không biết từ đâu đến một gã trung niên bà con xa anh rể tôi tên Hoàng Lan. Y nói năng bặt thiệp, nhã nhặn chiếm được cảm tình gia đình tôi, ba má tôi xem như con cháu. Ở nhà tôi mấy hôm, Hoàng Lan bày cho tôi làm bông giấy bán trong dịp tết sắp đến. Đang lúc sinh kế bế tắc, tôi nghe lời y mượn cô Hai Hoa – một cô gái tuổi đang xuân có quan hệ bà con xa gọi tôi bằng cậu số tiền 200 đồng gía trị xấp xỉ 2 chỉ vàng, tôi ra Châu Đốc mua giấy pơ-luya và giấy kiếng màu làm bông giấy. Tôi và Hoàng Lan làm gần một tháng thì tết đến, đem vào nhà bác Tư Văn – một lão nông bạn thân ba tôi ở xã Lương Phi, ba tôi đang ở nhờ mua tre làm lọp chuẩn bị đặt bắt cá đồng tràm khi mùa nước xuống. Bông giấy bọn tôi bán rẽ, nhưng nhìn không bắt mắt không mấy ai mua, vốn liếng vay mượn và công sức bỏ ra đi đứt! Sau năm 1975 tôi thăm cô Hai Hoa, được biết cô có chồng lính Sài Gòn chết trận đời sống khó khăn, tôi trã cô số nợ còn thiếu năm xưa và giúp cô một số tiền lúc khó khăn.

     “Dự án” sản xuất bông giấy thất bại, ông “thầy dùi” Hoàng Lan lại đề xuất nấu dầu khuynh diệp bằng lá tràm có sẳn trong rừng tràm bạt ngàn, chỉ tốn công hái đem về bỏ vào nồi nấu như nấu rượu lấy tinh dầu. Hoàng Lan làm một bài toán “trình” Ba tôi rất thuyết phục, “hiệu quả kinh tế” thấy rõ!

     Ba tôi “phê chuẩn dự án” vay mượn vốn mua thùng phuy và các thứ khác làm nồi nấu, xây lò… theo “thiết kế” của ông “kỷ sư” Hoàng Lan. Công việc đang xúc tiến, tới ngày tôi phải lên đường đi quân dịch làm công tác nội tuyến, lao vào “cuộc chiến đấu thầm lặng” - Nói theo ngôn từ các nhà hoạt động tình báo - mang trong lòng hy vọng gia đình thoát nghèo nhờ “chiếc đũa thần” dầu khuynh diệp! Cho đến khi tôi ra trường huấn luyện làm kiểm số viên Sở quân nhu quản trị số 6 thành Hanh Thông Tây Gò Vấp, Ba tôi lên Sài Gòn tìm thăm và cho biết công việc chuẩn bị đã xong sắp sửa nấu mẻ dầu đầu tiên. Nhân đi thăm tôi ba đến cơ cở dầu gió khuynh diệp của bác sĩ Tín tìm hiểu giá cả và việc bán dầu. Trên 60 năm rồi tôi không sao quên hình ảnh ba tôi, lúc hai cha con gặp nhau mừng mừng tủi tủi trong tiệm cơm bình dân. Ba gọi một tô canh cải bẹ xanh và dĩa thịt mặn, hai cha con vừa ăn cơm vừa nói chuyện, ba nhâm nhi ly rượu trắng kể chuyện nhà tôi nghe. Sau cùng ba nói: “Nhà minh đang lúc nghèo túng, con đi gần nửa năm ba mới đi thăm! Con ráng chịu thiếu thốn, nhờ trời lần này nấu dầu khuynh diệp thành công, ba trở lên đây bán dầu thăm con.” Khi chia tay về quê, ba móc trong túi một số tiền rất khiêm tốn giử vừa đủ đi xe, còn lại dúi hết vào túi tôi, tôi đưa lại ba một số đề phòng đi đường xa có việc cần xài nhưng Ba không chịu!

     “Dự án” sản xuất dầu khuynh diệp lại bất thành! Sau này theo lời kể của ba tôi, không biết vì sao nấu mỗi mẻ dầu thay vì được 1 - 2 lít như dự định, chỉ được 5 - 7 phân khối. Khi ấy tôi không có ở nhà để chia sẻ nỗi buồn của ba má tôi!

     Năm 1956 Ba tôi vay mượn vốn của chú Ba Dẻ - bà con bên nội tôi 200 giạ lúa, bán mua ghe đi buôn chuyến. Ba tôi đang cúng làm lễ khởi hành, từ đâu con chim nhạn trắng bay rơi trước mũi ghe, ba tôi thấy điềm lạ tỏ ra bất an nhưng không nói gì! Thật kỳ lạ, với chiếc ghe đó ba tôi đi buôn chuyến nào cũng lổ, may lắm hòa vốn. Cùng đi với ba có cô em thứ Năm của tôi, có lúc tôi cũng đi theo giúp ba chứng kiến những chuyến buôn khi hàng đầy ghe rời bến ba tôi rất vui, hy vọng chuyến này có lãi trả nợ, rồi có lúc hết nợ, gia đình có cuộc sống ấm no, vợ con đở vất vã, thiếu thốn. Khi kết thúc chuyến buôn hy vọng trôi theo dòng nước, ba tôi buồn bực lấy rượu giải sầu! Tình cảnh này cứ lập đi lập lại, có lúc khi uống rượu ba nói trong nghẹn ngào, tức tưỡi với anh em tôi: “Ba buồn quá con ơi! Muốn tự vận chết cho rồi, tội nghiệp má con và các con ở lại, ba chết cũng không yên!”. Nghe ba nói lòng tôi đau đớn, xót xa! Tấm lòng và trách nhiệm làm cha, làm chồng của ba tôi suốt cuộc đời lúc nào cũng vậy!

     Khi anh em tôi lần lượt thoát ly gia đình tham gia kháng chiến, cuộc sống gia đình tôi vẫn khốn khó. Năm 1958, ba tôi thu xếp gia đình trở về sinh sống ở kinh Tám Ngàn để lại những món nợ cùng lời dèm pha, xỉ vả của chủ nợ. Tôi nghe nói thiếm Ba Dẻ xót của cũng nói nặng nhẹ gì đó ba tôi, chú Ba cự lại: “Bà không được nói nặng anh tôi nghe…!”. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 trở về quê, anh em tôi bàn với ba xem số nợ còn thiếu cùng góp tiền giao ba trả hết nợ.

     Mùa khô năm 1975 tình thế cách mạng biến đổi rất nhanh, ta vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Là người trong cuộc mà chúng tôi ai cũng bất ngờ, vì nghĩ đến năm 1976 mới giành toàn thắng,

     Ngày 1 tháng 5 năm 1975 nhóm công tác cơ quan chúng tôi cùng một đơn vị bộ đội địa phương tỉnh tiếp quản thị trấn Hồng Ngự, trong thị trấn mọi sinh hoạt người dân vẫn bình thường. Vài hôm sau chúng tôi chuyển đến thị trấn Tân Châu, trở thành thị xã “thủ phủ” tỉnh Long Châu Tiền. Chúng tôi tạm trú trong căn phòng bỏ tróng khu cư xá gia đình viên chức chế độ cũ. Hôm nọ, nghe tiếng người phòng bên cạnh nói chuyện vừa đủ tôi “nghe lén” khen chúng tôi: “…Người ta tốt lắm, đối với dân rất vui vẻ lể độ, không nghe chửi thề như bọn mình…”. Chúng tôi sống những ngày đầu tiên vùng mới giải phóng rợp bóng cờ đỏ sao vàng trong khí thế vô cùng hồ hởi như bài hát Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh của nhạc sĩ Xuân Hồng: “… Niềm vui như đến bất ngờ. Ngày đi như trong đêm mơ…!”.

     Vài ngày sau, vợ chồng tôi anh em bố trí tạm trú nhà viên thiếu úy truyền tin chi khu Tân Châu tên Nhơn, mẹ và vợ chồng anh tiếp đãi vợ chồng tôi rất nồng hậu! Vài ngày sau anh Nhơn thi hành lệnh chánh quyền quân quản tập trung “học tập cải tạo” cùng sĩ quan quân đội Sài Gòn, nghe nóỉ chỉ một tuần lể hay mười ngày gì đó nhưng kéo dài vô thời hạn, đày ải họ chẳng khác tù khổ sai! Năm 1995 vì muốn bình thường hóa quan hệ với Mỹ phải chấp nhận trả tự do cho họ theo yêu cầu của Mỹ, Mỹ đón họ định cư trong lòng nước Mỹ theo diện HO.

     Việc này, về mặt chánh trị rõ ràng ta thua Mỹ 1 – 0 mà còn gây hệ lụy lâu dài cho đất nước! Hồi đó tôi thắc mắc chánh sách thất nhân tâm này hỏi các đồng chí lãnh đạo giải thích: “Cần phải làm như vậy để bảo đảm ổn định cho đất nước. So với Liên Xô, Trung Quốc sau khi giành thắng lợi, thành phần này “tập trung cải tạo” có đi không về…!”. Nhớ chuyện này đến nay tôi vẫn hối tiếc! Phải chi hồi ấy các nhà lãnh đạo noi gương ông cha ta mở lòng bao dung độ lượng, thực sự thực hiện chánh sách hòa giải dân tộc do chính ta đề ra, gây ảnh hưởng chánh trị - xã hội tốt biết bao!

     Mấy ngày sau theo chỉ dẫn em gái Út, tôi xách xe jeep đi tìm gia đình trôi dạt về sống Kinh H Tân Hiệp đường Long Xuyên – Thoại Sơn, gặp ba má tôi sống trong căn chòi nhỏ trên bờ kinh, dưới bến có chiếc ghe nhỏ của Thị xã ủy Long Xuyên giao làm chốt giao liên công khai. Tôi đưa cả nhà lên xe về Long Xuyên tạm trú cùng Nhà in tỉnh, gần trụ sở Ủy ban nhân dân phường Mỹ Bình ngày nay.

     Cuối năm 1976 tôi và em trai Nguyễn Minh Nhị góp tiền mua căn nhà cũ bằng gỗ tạp lợp tol của ông Sáu Việt cùng hai khoảng đất ở của ông Sáu Việt và ông Năm Lợi 1070 mét vuông, giá 3.400 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, bằng 1.700.000 đồng tiền Sài Gòn sau khi qui đổi, anh em tôi đưa gia đình về sinh sống ở đây. Nghe nói trước năm 1975 nơi đây rất phức tạp, dân lưu cư bất hảo sinh sống cảnh sát Sài Gòn còn phải nể. Những ngày đầu gia đình về đây ở, ban đêm cảnh giác anh em tôi cầm súng thay nhau gát.

     Năm 1981 tôi mua gổ trả chậm của Công ty lâm sản tỉnh do chú Tám Quang làm Giám đốc xây cất ngôi nhà sàn ba căn chử đinh trên nền nhà cũ rất khang trang. Vợ chồng chú Tám Quang có quan hệ thân tình với tôi, thiếm Tám nói: “Tư Đào ơi, sao mầy không nói chú Tám bán dư năm mười khối, mầy bán lấy lời đủ trả tiền cây mày cất nhà, mua chịu làm chi cho mang nợ!”. Tôi nói: “Cháu làm như vậy mang tiếng chết, không được đâu thiếm ơi!”. Khi ấy ta quản lý kinh tế theo cơ chế hai giá, gổ tôi mua của công ty theo giá bao cấp của nhà nước thấp hơn giá thị trường rất nhiều, vậy mà sau đó cả năm tôi mới trả hết nợ cho công ty.

     Bảy Nhị - em tôi công tác huyện Phú Tân thuyên chuyển về tỉnh làm phó Ban Tổ chức Tỉnh ủy mua gổ chánh sách cất ngôi nhà gần nhà tôi. Ba má vẫn sống với vợ chồng tôi, ba tôi căn dặn: “Vợ chồng thằng Đào thờ ông bà nội rồi, tao với mẹ mầy chết vợ chồng thằng Nhị thờ”. Má tôi nói vui “Ba mày tính khôn, chết mà muốn ngồi bàn thờ giữa nhà mới chịu!”.

     Khi ấy tôi làm chánh văn phòng Tỉnh ủy tham gia Tỉnh ủy. Nhà đang cất, ông Tư Việt Thắng – Bí thư Tỉnh ủy đến thăm thấy tôi cất nhà cạnh cánh đồng hoang, ông nói: “Sao Tư Đào ở đây, ra đường Nguyễn Du ở có qui hoạch đất dành cất nhà cho các đồng chí trong Tỉnh ủy…”. Tôi nói: “… Ở đây có đất rộng làm chuồng nuôi heo, đào ao nuôi cá mới sống được anh Tư ơi!”

     Đường vào nhà tôi khi ấy là đường đất nhỏ hẹp, mùa mưa trơn trợt, tôi xin gạch đá vụn lót đường, vận động bà con trong xóm cùng làm dần dần mở rộng mặt đường tráng nhựa như ngày nay, Ban Quản lý đô thị thị xã Long Xuyên đặt tên đường Cô Giang.

     Trong chế độ mới, anh em tôi có vị trí trong xã hội làm “nở mặt nở mày” ba má tôi, nay có ngôi nhà mới khang trang, bà con nội - ngoại tôi thường đến thăm ba má tôi chuyện trò với thái độ thân tình trọng thị, nhất là bà con bên nội không như thuở nào…! Chú Chín Hiến em ba tôi còn nói: “…không ăn bánh cũng liếm lá!”. Từ đó đến những năm cuối đời, ba má tôi sống an vui bên đàn con cháu hiếu thảo cho đến ngày theo ông bà! Đã qua rồi những năm dài gia đình tôi ly tán sống trong cảnh nghèo khó, ba má tôi vất vã kiếm sống và buồn tủi vì thái độ người đời “tham phú phụ bần”…!

     16 giờ ngày 4 tháng 6 năm 1999 nhằm ngày 21 tháng 4 năm Kỷ Mão, sau thời gian dài già yếu sức khỏe suy kiệt, ba tôi trút hơi thở cuối cùng, thọ 96 tuổi. Lể tang ba tôi rất đông đại diện các cơ quan đảng, chánh quyền, đoàn thể trong tỉnh cùng bà con cô bác, bạn bè đồng chí anh em tôi tham dự. Trong lể tang, thay mặt gia đình tôi đọc lời điếu có đoạn:

     “…

     “Ba ơi!

     “Nhớ khi xưa nước nhà còn trong chiến tranh máu lửa, gia đình ta ly tán sống trong cảnh nghèo khó! Bằng tấm lòng người cha, người ông, ba cũng như má chịu đựng trăm cay ngàn đắng, tảo tần vất vã vì con vì cháu lo từng miếng ăn tấm mặc, dưởng dục cưu mang con cháu trưởng thành làm người có ích cho đất nước.

     “Ba má dạy con cháu sống có nghĩa có nhân, biết yêu nước thương dân, sống chan hòa và trung thực với mọi người. Trong lòng con cháu ba má, dù năm tháng qua đi không bao giờ quên công ơn trời biển ba má, cùng những kỷ niệm êm đềm sống trong vòng tay yêu thương của ba má khi còn ấu thơ hay đã trưởng thành, khi đất nước còn trong chiến tranh hay thời bình.

     “Xin ba yên lòng trong giấc ngủ ngàn thu! Con cháu của ba nguyện trước hương hồn ba luôn vâng lời dạy bảo của ba má, sống hòa thuận thương yêu nhau, coi trọng điều nhân nghĩa, biết hành xử theo lẽ phải ở đời và ngẫng cao đầu làm người.

     “…

                                     Long Xuyên, ngày 13 tháng 3 năm 2022

                                                               N.M.Đ

 Tác giả gởi cho viet-studies ngày 13-3-22