Cuộc Sống Đời Thường Thú Vị Của Tôi

 

Nguyễn Minh Đào

 

Tôi thoát ly gia đình tham gia kháng chiến chống Pháp năm 1947 khi còn tắm truồng, trong chiến tranh máu lửa nhờ “thần may mắn mỉm cười” tôi sống sót đến ngày hòa bình lập lại năm 1975. Trên con đường mới, tôi phấn đấu không mệt mõi đem hết sức mình cống hiến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành mọi nhiệm vụ trên mỗi chặng đường cách mạng tôi đi qua.

Từ khi nghỉ hưu “làm người tử tế” – nói theo lời nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Tôi được giải phóng mọi sự ràng buộc, không phải lo toan tất bật về trách nhiệm, nghĩa vụ đối với việc công. Tôi sống thanh thản như mọi người dân giữa đời thường rất thú vị!

Hôm nay, giữa mùa dịch bệnh Covid-19 hoành hành làm đảo điên thiên hạ, tôi cũng như mọi người bó gối trong nhà có thời gian nghĩ ngợi chuyện xưa chuyện nay với những kỷ niệm vui buồn, tôi xin chia sẻ cùng bạn bè dưới đây:

 

Chuyện cuối “con đường hoạn lộ”

Tháng 9 năm 1992, tôi từ tỉnh An Giang chuyển công tác về Văn phòng 2 Trung ương Hội Chử thập đỏ Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, anh Sáu Thành – Phó chủ tịch Trung ương Hội phụ trách. Anh phân công tôi làm Trưởng phòng Nghiên cứu tổng họp, nhưng cán bộ trong phòng làm việc theo chế độ chuyên viên, anh Sáu Thành trực tiếp lãnh đạo chỉ đạo, chức trưởng phòng của tôi chỉ là hữu danh vô thực! Khi ấy, Trung ương Hội tập trung chỉ đạo chuẩn bị tiến tới đại hội Hội Chử thập đỏ các cấp nhiệm kỳ mới, anh Sáu Thành cử tôi làm Đặc phái viên Trung ương Hội, chịu trách nhiệm giúp các tỉnh – thành Hội phía Nam từ Đà Nẳng đến Minh Hải (tỉnh Cà Mau sau này) chuẩn bị nội dung, nhân sự tổ chức đại hội (trừ thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh An Giang do người khác phụ trách).

Sau đợt công tác kéo dài cả năm, các tỉnh thành Hội phía Nam đại hội xong, anh Sáu Thành cử tôi trở lại Đà Nẳng kiểm tra thực hiện một dự án nhân đạo do Hội Chử thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế tài trợ. Xong việc, tôi về Văn phòng không biết việc gì làm, hàng ngày đến cơ quan có mặt uống trà, đọc báo, tán gẫu, cuối buổi làm việc rũ nhau đi nhậu, không nghe anh Sáu Thành phân công tôi làm việc gì nữa! Thời gian kéo dài hơn một tháng, tôi cảm nhận thái độ anh Sáu Thành đối với tôi khác thường, không như buổi đầu tôi mới đến. Tôi rũ bác sĩ Du công tác cùng phòng đến nhà anh Sáu Thành, tôi hỏi: “Anh Sáu! Sao anh không phân công tôi làm gì nữa…?” Anh Sáu Thành không trả lời, tôi vặn hỏi hơi gay gắt một lần nữa, cũng không nghe anh trả lời, bác sĩ Du sợ tôi nóng nói mếch lòng thủ trưởng, khều tôi ra dấu khuyên tôi bình tỉnh nhưng tôi nóng thật, hỏi lần thứ ba giọng cáu gắt: “Có gì anh cứ nói đi?” – Anh Sáu Thành ấm ớ: “Khó nói quá Tư Đào ơi!”. Tôi hỏi: “Có gì khó nói anh cứ nói thẳng?”. Anh Sáu Thành mới nói: “Anh Nguyễn Trọng Nhân (Chủ tịch Trung ương Hội) chỉ đạo, có ý kiến lãnh đạo tỉnh An Giang không phân công công tác cho Tư Đào”. Tôi lớn tiếng: “Các anh đem con bỏ chợ, đã xuống An Giang làm việc với Thường trực Tỉnh ủy tìm hiểu chuyện của tôi (chuyện tôi bị đẩy ra khỏi Tỉnh ủy trong đại hội) đồng ý thu nhận tôi về đây, bây giờ người ta nói bậy cũng nghe. Thôi! Các anh không xài cho tôi về tỉnh nghỉ hưu”. Anh Sáu Thành nói: “Tùy Tư Đào”. Nói xong tôi bực tức ra về!

Đêm ấy tôi buồn không sao ngủ được! Tôi không trách anh Sáu Thành, vì anh chịu sự lãnh đạo của Trung ương Hội Chử thập đỏ Việt Nam không thể làm gì khác. Tôi biết đồng chí lãnh đạo nào ở tỉnh An Giang nói với đồng chí Nguyễn Trọng Nhân về tôi, tôi trách đồng chí đối xử cạn tào ráo mán với tôi! Vì bất đồng trong công việc đẩy tôi về đây như nhổ cái gai trong mắt, nay không để tôi yên thân, đánh đòn cuối cùng triệt hạ tôi không chút thương tiếc! Khi ấy tháng 3 năm 1994 tôi làm đơn xin chuyển về tỉnh nghỉ hưu trước tuổi. Chuyện này dài dòng, tôi có viết trong chương cuối tập hồi ký “Chuyện đời tự kể” của tôi. Từ đây, đặt dấu chấm hết 47 năm trên “con đường hoạn lộ” của tôi, từ tập tễnh những bước đi đầu tiên năm 1947.

 

Chuyện tôi làm “con buôn”

Trong thời gian công tác Văn phòng 2 Trung ương Hội Chử thập đỏ Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, tôi thường lân la đến các trạm đại diện của các công ty tỉnh chơi, nhất là Công ty Xuất nhập khẩu nông thủy sản Afiex có anh em thân quen tôi thường đến nhất, anh em thấy tôi rỗi rãnh muốn giúp tôi có việc làm có tiền thu nhập chi xài, gợi ý tôi tổ chức thu mua bắp hạt đang kỳ thu hoạch ỏ Định Quán – tỉnh Đồng Nai giao Công ty xuất khẩu. Tôi bàn với Lê Hữu Nghĩa cháu gọi tôi bằng cậu vừa nghỉ hưu cùng làm với tôi. Tôi nhận tiền tạm ứng của Công ty, “đóng đô” nhà một chủ ruộng bắp, hàng ngày đi đi về về đến ruộng bắp tiếp xúc với chủ ruộng xem bắp, mặc cả giá cả mua bán, khi đủ chuyến xe tải chở đến kho Linh Xuân – Thủ Đức nhập kho, có chuyến tàu xuất khẩu chở giao Công ty đưa xuống tàu.

Khi vận chuyển bắp nhập kho, có vài lần tôi đi theo Hữu Nghĩa chơi, đến trạm thuế dừng lại đóng thuế, tôi thấy nhiều chuyến xe đóng thuế không xé biên lai, tôi hỏi Hữu Nghĩa vì sao? Hữu Nghĩa cho biết mỗi chuyến xe phải đóng… bao nhiêu đồng tôi không nhớ, thí dụ như 200 ngàn đồng có xé biên lai theo qui định, nhưng đóng 100 ngàn đồng không biên lai, chủ hàng không dại gì phải đóng 200 ngàn đồng, có biên lai cũng không làm gì, vì từ đây đến kho không còn trạm thuế nào nữa! Tôi nghỉ với cung cách tham nhũng này, nhà nước mất tiền thuế một mùa bắp không ít, nhân viên trạm thuế thì giàu sụ! Sự việc diển ra giữa “thanh thiên bạch nhựt”, tôi không hiểu các vị lãnh đạo ngành thuế địa phương có biết không?

Công việc kéo dài khá lâu, thu nhập của cậu cháu tôi cũng khá khá. Mọi việc tôi giao Hữu Nghĩa lo liệu, tôi chỉ hụ hợ giử tiền chi xuất như thủ quỹ - kế toán, công việc đơn giản mà tôi làm lúng túng, vì xưa nay tôi có làm việc gì liên quan đến tiền bạc, mua bán phải tính toán bao giờ! Hàng ngày sống trong nhà dân thực hiện “ba cùng”, tiếp xúc với chủ ruộng bắp và bà con trong vùng hiểu dân nhiều hơn, tôi thấy rất thú vị. Bà con thấy tôi sao không giống anh thương lái mua bắp chút nào, đi lại bằng “xe huê kỳ” Nissan sáng bóng, ăn mặc chãi chuốt như một công chức… Họ lấy làm lạ, có người lân la chuyện trò tìm hiểu, tôi nói qua loa che giấu thân phận của mình!

Tháng 3 năm 1994, tôi nghỉ hưu trong khi còn khỏe mạnh, thấy mình cần làm gì đó để có thu nhập cùng gia đình lo toan cuộc sống và có chút của ăn của để dưỡng già! Anh em rũ tôi hùn vốn mua chiếc xáng cạp cũ đào thuê kinh thủy lợi, thuê mướn công nhân và người quản lý vận hành. Chiếc xáng cũ hư mãi, chi phí sửa chữa tốn kém, người quản lý báo bao nhiêu chi trả bấy nhiêu không kiểm soát được. Tôi thấy duy trì chiếc xáng hoạt động không hiệu quả, còn bận tâm theo dõi tính toán, tôi bàn anh em tìm mối bán thu hồi vốn. Khi ấy, tôi thấy một số cán bộ nghỉ hưu nuôi tôm cá, có người nuôi thành công làm tỷ phú, có người lổ sạt nghiệp phải bán nhà trả nợ! Tôi nghĩ mình không thể chơi trò may rũi đánh đố cho số phận! Thời điểm đó, tỉnh có chủ trương khai mở vùng đất hoang hóa Tứ giác Long Xuyên, Bảy Nhị - em tôi đang làm Chủ tịch UBND tỉnh, gợi ý tôi đến UBND huyện Tri Tôn đăng ký nhận đất khai hoang làm ruộng. Tôi nghe có lý, dù sao mình cũng sinh ra trong gia đình nông dân làm ruộng có lạ gì, chứ làm thứ gì khác không quen, mà cũng không có vốn, lơ mơ như gà công nghiệp không khéo lỗ “toi mạng”!

Đến Ban quản lý dự án huyện Tri Tôn đăng ký nhận đất khai hoang ở xã Tà Đảnh, vướng chánh sách “hạn điền” tôi chỉ được đăng ký 3 héc ta, nhờ người khác đứng tên hộ đăng ký 3 héc ta nữa là 6 héc ta. Tôi có máu nông dân “sản xuất lớn” của ba truyền cho, không cam chịu làm “cò con”, mua thêm đất của người khác gần đó cộng đất của tôi là 15 héc ta, vay mượn vốn làm ruộng. Phải mất hai mùa khô năm 1993 và 1994 cày vỡ đất, trang ủi mặt bằng, làm bờ bao, đào mương dẫn nước tưới tiêu, rửa phèn… mới xong toàn bộ diện tích.

Vào vụ đông xuân năm 1994 – 1995, khi nước rút còn 5 – 7 tấc, tôi thuê máy cày trục dọn sạch mặt đất, để nước lắng trong sạ ngầm vụ lúa đầu tiên trên nền 15 héc ta, cuối vụ thu được 2.587 giạ lúa, bán 1.150đ đến 1.250đ/kg, trừ chi phí còn lãi 14.399.000đ. Từ đó, hàng năm tôi đều sản xuất hai vụ lúa, vụ đông xuân năm nào cũng có lãi ít nhiều, vụ hè thu những năm đầu đất còn phèn, năng suất lúa thấp, năm lãi năm lổ. Dù hiệu quả kinh tế không cao và cũng khá vất vã nhưng tôi không bỏ cuộc. Tôi biết, có những người trước tôi cũng làm như vậy nhưng lỗ vốn liên tiếp mấy năm không trụ nổi, phải bán đất bỏ cuộc.

Điều làm cho người nông dân khi ấy, trong đó có tôi không vui, là giá lúa lên xuống thất thường, điệp khúc “được mùa rớt giá” lặp đi lặp lại và còn vấn nạn làm ra hạt lúa đem bán không dễ dàng, vì chỉ có Công ty Lương thực nhà nước độc quyền kinh doanh lúa gạo. Tôi nhờ quen biết giám đốc Công ty lương thực tỉnh niệm tình ưu tiên nhận mua lúa của tôi. Mỗi lần tôi ngồi ghe chở lúa đến trạm thu mua của Công ty, ngán ngẫm nhìn hàng ghe đậu dài nối đuôi chờ cân, ghe tôi đến sau cũng phải xếp hàng chờ như mọi ghe khác, có khi chờ mòn mõi vài ba ngày mới đến lượt mình. Tôi không muốn dựa hơi thân quen giám đốc công ty dành sự ưu tiên cho tôi.

Trong khi đó tại Lâm trường Bình Minh cách không xa, những người trồng tràm bán tràm cừ có giá cao, không phải cực nhọc nhiều như trồng lúa, hiệu quả lại cao hơn trồng lúa nhiều. Tôi có nửa lô đất 4,5 héc ta trong Lâm trường Bình Minh do Chi cục Kiểm lâm tỉnh giao khoán, trồng tràm Úc hơn 2 năm tuổi đang phát triển tốt. Tôi chán ngán làm lúa, muốn mở rộng diện tích trồng tràm. Năm 2001, Trại lúa giống thuộc Công ty Bảo vệ thực vật tỉnh giáp ranh đất tôi, gợi ý đổi đất tôi để mở rộng diện tích sản xuất lúa giống. Tôi giao 1 héc ta lấy 1,5 héc ta đất của trại mới mở còn phèn, năng suất lúa thấp, tiếp giáp đầu trong Lâm trường Bình Minh để trồng tràm không chút đắn đo, mở rộng diện tích thêm 4,5 héc ta nửa là 9 héc ta. Nhưng “người tính không bằng trời tính”, tràm tôi trồng năm đó gặp mùa nước lớn tràm chết nhiều, số cây còn sống què quặt, tôi lổ đứt vốn! Còn lại 4, 5 héc ta tràm cừ tới lứa năm 2003 tôi bán được giá thu gần 300 triệu đồng.

Từ năm 2004 tràm cừ mỗi năm tụt giá, trong khi giá lúa dần dần lên cao, sản xuất lúa hiệu quả cao nhiều lần trồng tràm, Những người chủ đất “rừng trồng sản xuất” trong Lâm trường Bình Minh tự mở diện tích trồng lúa từ 40, 50 đến 100% vượt quá qui định 30% của chánh quyền. Tôi ước tính diện tích đất trồng rừng còn lại của Lâm trường Bình Minh thu hẹp đến trước vụ đông xuân năm 2011 – 2012 không quá 50%. Có thể một ngày không xa, những người chủ đất “rừng trồng sản xuất” sẽ xóa hết diện tích trồng rừng chuyển sang trồng lúa. Mùa khô năm 2011, để bảo vệ 70% diện tích trồng rừng của Lâm trường theo qui hoạch, chánh quyền đưa lực lượng bán vũ trang đến Lâm trường Bình Minh đóng chốt tuần tra, kiểm soát răn đe chủ đất không được gieo sạ lúa quá 30% diện tích. Từ đó phát sinh mâu thuẫn lợi ích giữa người chủ đất với chánh quyền khá gay gắt.

Riêng tôi, hiện có lô đất hơn 9 héc ta ở Lâm trường Bình Minh. Về lợi ích kinh tế, tôi cũng như những người chủ đất khác, nhưng tôi còn là cán bộ hưu trí, nên phải biết hành xử sao cho phù hợp. Trước mùa nước mổi năm, khi thấy những người chủ đất tự mở diện tích trồng lúa như nói trên vẫn “bình an vô sự”, tôi đầu tư trên 50 triệu đồng cày ũi mở hết hơn 6 héc ta đất trồng rừng còn lại, định sản xuất vụ lúa đông xuân 2011 – 2012 toàn bộ diện tích 9 héc ta đất. Nhưng thấy chánh quyền làm “căng” như vậy, chẳng lẽ vì chút quyền lợi vật chất tôi “đối đầu” với chánh quyền, nên chấp nhận mất số tiền đã bỏ ra và phải thêm chi phí mua tràm giống, thuê nhân công … trồng tràm lại theo qui định của chánh quyền.

Khi ấy, tôi nhận thấy chánh quyền duy trì Lâm trường Bình Minh chỉ vì vấn đề môi trường. Nhưng với diện tích Lâm trường hơn 900 héc ta, nếu theo qui hoạch trừ 30% trồng lúa, còn lại hơn 600 héc ta “trồng rừng sản xuất” nằm giữa cánh đồng lúa, tôi nghĩ nếu chuyển toàn bộ diện tích này trồng lúa, không ảnh hưởng gì đến vấn đề môi trường sống khu vực, mà còn đạt được lợi ích kinh tế - xã hội. Trước hết, xóa bỏ mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa người dân với chánh quyền, người dân hoan nghinh chánh quyền quyết định một chủ trương đúng đắn, phù hơp. Thứ hai, chánh quyền thu được khoản thuế chuyển mục đích sử dụng đất…không nhỏ. Thứ ba, với hơn 900 héc ta đất ở Lâm trường Bình Minh, nếu trồng hết lúa 2 vụ/năm, sẽ tăng sản lượng lương thực tỉnh nhà đáng kể, góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, tăng xuất khẩu và cải thiện đời sống người dân. Nếu để kéo dài tình trạng nhùng nhằng như hiện nay, Nhà nước không có lợi gì, mà còn tạo mâu thuẫn lợi ích giữa Nhà nước với người dân vì một chuyện không đáng.

Ngày nay, sau nhiều năm chứng minh giá trị bảo vệ môi sinh cũng như lợi ích kinh tế của rừng không đo đếm được, trong khi đất rừng ngày càng thu hẹp, muốn mở diện tích trồng rừng không dể dàng! Chánh quyền kiên quyết giử hiện trạng Lâm trường Bình Minh như ngày nay không vì lợi ích trồng lúa trước mắt, tôi mới thấy chủ trương rất đúng đắn.

Những năm tháng tôi “làm nông dân”, làm ruộng mà như phú nông, địa chủ cất trại trên bờ ruộng ăn nghỉ, có người lo cơm nước, sáng chiều mát trời chắp tay sau lưng thả rong trên bờ ruộng xem xét, mọi thứ đều thuê mướn người làm, không hề “bán mặt cho đất - bán lưng cho trời” như nông dân thứ thiệt. Nếu ở miền Bắc sau năm 1954 cải cách ruộng đất tôi bị lôi ra “đấu tố” là cái chắc!

Tôi nghiệm ra nghề nông là một nghề “ăn chắc mặc bền” và theo đà phát triển dân số người ngày càng đông, đất canh tác ngày càng thu hẹp, giá trị đất ngày một cao, ông bà ta nói “mua vàng thì lỗ, mua thổ thì lời” cấm có sai. Tôi ngày càng cao tuổi, sức khỏe suy giảm, đôi lần muốn sang bán đất chấm dứt “làm nông dân”, nhưng suy đi tính lại, muốn giử đất lâu dài mà không trực tiếp canh tác đành phải làm “địa chủ thu tô”. Tôi mua và hoán đổi mở rộng thêm diện tích, xê dịch đất tôi hiện nay hơn 9 héc ta mặt tiền, phía sau Trạm Kiểm lâm Bình Minh. Hàng năm tôi cho người khác thuê đất trồng tràm Úc có thêm thu nhập bù đấp cuộc sống gia đình./-

 

                              Long Xuyên, ngày 17 tháng 10 năm 2021

 

                                                         N.M.Đ

 

 Tác giả gở cho viet-studies ngày 20-10-21