8

Là đảng viên Đảng Xã hội Việt Nam

 

Có ba bất ngờ, mãi sau này bác sĩ Trần Hữu nghiệp mới hiểu. Thứ nhất, từ Nam Bộ vượt biển ra miền Bắc trước khi đi tại bến Cồn Tra, Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre, các đồng chí lãnh đạo Khu 8 gặp mặt, dặn dò sứ mạng chủ yếu nhiệm vụ là báo cáo với Trung ương, Bác Hồ, tình hình Nam Bộ sau Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, và xin vũ khí vào chi viện cho kháng chiến miền Nam. Nhưng không ngờ bác sĩ Trần Hữu Nghiệp lại “bị” giữ lại, không được quay vào Nam cùng đoàn trên con thuyền chở đầy vũ khí đang tập kết tại bến Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.

Bất ngờ thứ hai, Trần Hữu Nghiệp lúc ở Nam Bộ được giao nhiệm vụ mở lớp dạy nghề Y ở cù lao An Hóa, tỉnh Mỹ Tho, chưa phải là người bên quân sự, nhưng ra ngoài này Trung ương điều sang công tác tại Cục Quân y, Bộ Quốc phòng. Và thứ ba, cũng là điều khó hiểu nhất, Trần Hữu Nghiệp được Bác Hồ, Chính phủ mời tham gia vào Ban Chấp hành thành lập Đảng Xã hội Việt Nam.

Nhưng hai bất ngờ trên, nghĩ sâu lại có liên quan với nhau hay nói cách khác tuy hai mà một, một mà hai. Bây giờ thì biết rồi, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp khi còn ở trong Nam té ra được gọi tham gia trong chuyến vượt biển đã có chỉ đạo của Trung ương và Bác Hồ. Nhưng ai là người giới thiệu với Bác, với Trung ương về Trần Hữu Nghiệp? Câu trả lời rất có thể từ bác sĩ Phạm Ngọc Thạch? Họ từng quen biết nhau khi đang học Trường Đại học Y khoa Đông Dương. Phạm Ngọc Thạch ngày đó học trên Trần Hữu Nghiệp hai lớp, sở thích của ông rất mê bóng đá và không chiều nào khi xuống lớp là chạy ra sân. Học ở Hà Nội xong bốn năm, Phạm Ngọc Thạch được học bổng sang Paris (Pháp) học tiếp hai năm lấy bằng “đốc tờ”, rồi làm trợ giảng ở Trường đại học Y Paris ba năm, sau đó mới về Việt Nam vào Sài Gòn mở phòng mạch trên đường Chasseloup Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay). Ở Sài Gòn Phạm Ngọc Thạch bắt đầu giác ngộ cách mạng, rồi đi theo kháng chiến. Chính Phạm Ngọc Thạch là người cắm lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên, ngay tại ngôi nhà của mình ở Sài Gòn trong ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngày 27 tháng 8 năm 1945 tại Việt Bắc, Ủy ban Mặt trận Giải phóng Việt Nam họp tự cải tổ thành Chính phủ Lâm thời, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch được cử làm Bộ trưởng Y tế đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lúc ấy ông còn đang hoạt động ở Nam Bộ. Những câu hỏi cứ treo lơ lửng ở đấy, rồi vì công tác liên tục không có thời gian suy ngẫm, nhưng cái chính Trần Hữu Nghiệp thực sự được cấp trên tin tưởng. Sang công tác ở Cục quân Y ban đầu có phần hơi lạ? Nhưng càng tiếp thu, càng nhận ra ý đồ sáng suốt của cấp trên là để phục vụ cho nhiệm vụ lâu dài. Nhiều kiến thức về mặt tổ chức, Trần Hữu Nghiệp từng làm khi ở An Hóa, Mỹ Tho, nhưng chưa thực bài bản nhất là các nội dung trong hệ thống đào tạo, trong các tình huống phối hợp nhiệm vụ giữa quân và dân y trên chiến trường cả ở cấp cơ sở và cấp trên cơ sở.

Chuyện bác sĩ Trần Hữu Nghiệp được đề cử, tham gia vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Xã hội Việt Nam càng thú vị hơn, nếu không nói là quá bất ngờ. Thú vị, bất ngờ vì được chính Bác Hồ giới thiệu, trong khi Trần Hữu Nghiệp không phải đảng viên Đảng Lao động Việt Nam (Đảng Cộng sản Việt Nam). Còn hơn thế, một đảng này lại giới thiệu một người không phải đảng mình tham gia vào một đảng khác, trên thực tế đảng ấy là một đảng đối lập của Đảng Lao động Việt Nam?! Nhưng xem ra vẫn là có lý. Lý vì bác sĩ Trần Hữu Nghiệp bấy giờ chưa là đảng viên Đảng Lao động mà nguyên tắc chẳng có đảng nào họ chấp nhận người của đảng này được phép tham gia đảng khác! Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp còn “mới toanh” chưa dính dáng gì tới chính trị.

Nhưng bản chất con đường Trần Hữu Nghiệp dấn thân, chính là con đường cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo (Đảng Lao động Việt Nam), để nói nó thú vị lại ở điều này. Một trí thức như Trần Hữu Nghiệp, ông cũng thừa biết điều đó và có thể xem được làm Ủy viên Ban Chấp hành đầu tiên Đảng Xã hội Việt Nam là một nhiệm vụ cũng không vô lý, đôi khi cảm thấy còn vinh dự nữa. Ngày 22 tháng 7 năm 1946, Bác Hồ, Trung ương cử các ông Nguyễn Xiển, Hoàng Minh Giám và bác sĩ Trần Hữu Nghiệp đứng ra thành lập Đảng Xã hội Việt Nam. Họ là những trí thức lớn, nhân vật nổi tiếng lúc bấy giờ. Hãy xem tiểu sử tóm tắt của các vị, đầu tiên là ông Nguyễn Xiển.


Nguyển Xiển

Ngay từ nhỏ học trường Quốc học Vinh, sau ra Hà Nội thi vào trường Bưởi ngôi trường danh giá chỉ thi tuyển lấy các học trò xuất sắc. Nhân đây cũng nói luôn có một điều rất thú vị trùng hợp ngẫu nhiên giữa Nguyễn Xiển và Trần Hữu Nghiệp trong một “sự cố”, năm 1926 chàng trai Nguyễn Xiển tham gia bãi khóa tại Hà Nội, trong tang lễ chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh, thì cùng năm đó ở Nam Bộ tại trường trung học công tỉnh Bến Tre cậu học trò Trần Hữu Nghiệp cũng xuống đường, tham gia bãi khóa nhân đám tang cụ Phan Châu Trinh. Kết cục ở Hà Nội Nguyễn Xiển bị nhà trường đuổi học, cấm thi tú tài, ở Bến Tre Trần Hữu Nghiệp cũng bị chính quyền tay sai Pháp, nhà trường đuổi học và phải lên Sài Gòn xin vào học trường tư thục Huỳnh Khương Ninh. Bị đuổi học, nhưng Nguyễn Xiển quyết tâm tự học để năm sau thi đỗ tú tài Tây, rồi được học bổng sang Pháp thi vào trường Đại học Toulouse và đỗ cử nhân tại Paris. Tốt nghiệp Nguyễn Xiển trở về Việt Nam, triều đình Huế thấy tài năng của Nguyễn Xiển mời vào làm quan, nhưng ông từ chối, ra Hà Nội làm nghề dạy học. Cách mạng Tháng Tám thành công, Nguyễn Xiển được Bác Hồ cử làm Chủ tịch Ủy ban hành chính Bắc Bộ, kiêm giám đốc Nha Khí tượng.

Nói về ông Hoàng Minh Giám, xuất thân trong một dòng tộc nổi tiếng các triều đại phong kiến Việt Nam, như quan Thượng thư Bộ lễ Hoàng Phạm Thạch (1795 – 1849). Quan Thượng thư Bộ lễ Hoàng Tướng Hiệp (1835 – 1885). Ông ngoại của Hoàng Minh Giám cũng từng là Thượng thư Bộ học Cao Xuân Dục. Cha Hoàng Minh Giám là cụ Phó bảng Hoàng Tăng Bí, một trong những người sáng lập ra phong trào “Đông Kinh Nghĩa Thục”. Thật không hổ thẹn với dòng dõi của mình, Hoàng Minh Giám từ khi nhỏ là đứa trẻ thông minh, tài trí, có thiên bẫm chính trị gia giỏi. Năm 1926, tốt nghiệp Trường Cao đẳng Đông Dương sau đó sang dạy học ở Campuchia, rồi về Sài Gòn tiếp tục “gõ đầu trẻ”, nhưng tại đây Hoàng Minh Giám nhận ra bản chất của chủ nghĩa thực dân, nỗi thống khổ của người dân mất nước, Hoàng Minh Giám đã viết nhiều bài báo tố cáo chống lại chế độ thực dân Pháp. Năm 1945, Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, Hoàng Minh Giám được Bác Hồ, Quốc hội cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Đất nước mới giành độc lập còn gặp bao nhiêu khó khăn thử thách, để giữ yên ổn định chính trị khi quân Pháp được Mỹ giúp sức núp bóng quân Anh trở lại đánh chiếm Nam Bộ, Hoàng Minh Giám trợ giúp tích cực cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, đàm phán với Jean Sainteny đại diện cho Chính phủ Pháp, ký kết Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946.

Việc lựa chọn các tên tuổi lớn như thế, vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Xã hội Việt Nam là để tập hợp các nhân sĩ, trí thức, giới công thương tiến bộ, đoàn kết xung quanh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chống lại thực dân Pháp. Tại Hội nghị, ông Nguyễn Xiển được bầu làm Tổng thơ ký Đảng. Các ông Hoàng Minh Giám, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp được đề cử tham gia vào Ban Chấp hành. Kỷ niệm sự kiện đặc biệt này, về sau Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp có viết một bài báo đăng trên tờ Tổ Quốc, số 142, có đoạn như sau: “Tôi vinh dự đứng trong hàng ngũ đảng viên ngay từ lúc Đảng xã hội mới ra đời. Người trí thức yêu nước và yêu dân chủ 14, 15 năm về trước cảm thấy rằng giải phóng và thống nhất Tổ quốc rồi còn cần phải dần dần tổ chức lại một đời sống công bằng hợp lý. Danh từ xã hội chủ nghĩa nảy mầm ra, và từ ấy lảng vảng luôn trong trí óc. Nhưng đi theo con đường nào mà tới chủ nghĩa xã hội, đi cách nào nhanh hay chậm? Trước mắt tôi lúc ấy đồng thời cũng lơ lửng một tấm màn sương. Cảm ơn Đảng giai cấp công nhân, đem tới cho chúng ta ánh sáng của học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, xé bức màn sương ấy cho tan dần trên con đường tiến lên của người đảng viên xã hội Việt Nam”.

Trần Hữu Nghiệp nói như thế, và ông biết mình đang đi đúng con đường đã chọn, nhưng trên con đường tới đích có lúc phải làm như vậy!

 

 

 Mục Lục