7

Vượt biển ra Bắc đưa võ khí vào kháng chiến Nam Bộ

 

Cần phải nói thêm ý này cho rõ. Tháng 9 năm 1945 quân Pháp quay lại đánh chiếm Sài Gòn. Tháng 10 bác sĩ Trần Hữu Nghiệp rời thành phố Mỹ Tho tham gia kháng chiến, rồi được phân công làm Ủy viên tuyên truyền, nhưng chỉ làm thời gian ngắn khi cách mạng mới giành chính quyền. Tiếp theo Trần Hữu Nghiệp thực hiện kế hoạch của Ủy ban kháng chiến tỉnh giao cho mở lớp cứu thương, vừa phụ trách lại vừa trực tiếp giảng dạy trong thời gian ba tháng tại huyện An Hóa, tỉnh Mỹ Tho, bởi lúc này rất cần thiết có một lực lượng cán bộ Y tế phục vụ kịp thời cho kháng chiến. Học viên bấy giờ chưa nhiều chừng bốn mươi người, nhưng đa số họ là con các gia đình khá giả. Lần đầu mở lớp ở địa phương cũng có nhiều bất cập, nhưng Trần Hữu Nghiệp can thiệp tích cực với chính quyền cách mạng xã, cho học viên tới lớp được phép mang guốc, đi dép lê, mặc quần áo trắng, mục đích để tạo ra sự thống nhất, mặt khác cũng dễ quản lý con người, nhưng khi nói với họ lại khác đi “vì vệ sinh chung của bệnh viện”. Rồi cũng không được bao lâu khi lớp học còn dang dở, do quân Pháp đưa quân tấn công vào An Hóa, số “đệ tử” toàn con nhà khá giả tan như bọt xà phòng, nhiều kẻ chạy biến ra thành phố, một số khác bỏ về nông thôn, đáng nói về sau trong số đó còn có kẻ trở thành tay sai làm mật thám cho giặc. Đây là bài học đầu tiên nhớ đời với bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, vào những ngày tháng đầu vừa mới tham gia kháng chiến. Sau này khi tiếp xúc với Chủ nghĩa Mác, mới sáng ra tính đấu tranh giai cấp trong xã hội, tính giao động của tầng lớp trung gian mà trước đó trong nhận thức của ông đúng là “lơ-tờ-mơ”. Vậy mà vẫn chưa đủ “ngấm đòn”, từ năm 1951 đến giữa năm 1953 vẫn lặp lại lần nữa. Số là ta chủ trương mở thêm nhiều lớp y tá, nhưng Trần Hữu Nghiệp vẫn chưa ý thức dựa vào công nông, tiêu chuẩn chính trị, nhưng lại quá nặng vào trình độ văn hóa, nên đầu tuyển bắt phải dịch cho được một bài tiếng Pháp ngắn, do mong muốn họ có biết ít nhiều tiếng Pháp sau này dễ dàng đọc được tên thuốc. Kết quả chỉ sau hai năm rưỡi học tập, khi quân Pháp đánh phá vùng căn cứ kháng chiến đã có trên 28% bỏ chạy về thành, hoặc về nhà làm ăn, trong số đó hầu hết là học trò “cưng” của bác sĩ Trần Hữu Nghiệp có học ban thành chung hay díp-lôm. Nhớ lại chuyện người xưa, Khổng Tử dạy: “Tam thiên đồ đệ, thất thập nhị hiền”, nghĩa là ba nghìn học trò chỉ có bảy mươi hai anh khá. Nói lại như vậy, chẳng qua cũng để tự bào chữa và an ủi mình mà thôi!

Tháng 2 năm 1946, quân Pháp dùng tàu chiến đổ quân từ ngoài biển vào rồi ngược sông Tiền đánh chiếm tỉnh Bến Tre, báo hiệu một cuộc kháng chiến ác liệt xảy ra giữa lực lượng cách mạng và quân Pháp xâm lược trên chiến trường Nam Bộ. Phía Bắc, đội quân Nam tiến từ miền Bắc chi viện cho miền Nam mới chỉ vào tới được Nam Trung Bộ (tỉnh Phú Yên). Quân Pháp sau khi chiếm Sài Gòn, chúng tung lực lượng tiến ra đánh chiếm các tỉnh Trung bộ, nhưng vấp phải lực lượng kháng chiến Khu 5 nên đành phải dừng lại từ Nam Phú Yên trở vào. Tình hình Nam Bộ cho thấy tính phức tạp, và khó khăn đang hiện hữu từng ngày giữa đôi bên. Nhưng để đối phó với quân Pháp, Nam Bộ chỉ còn con đường duy nhất là tự lực cánh sinh. Trước thực trạng trên, lãnh đạo “R”, Khu 8 theo chỉ đạo của Trung ương bí mật tổ chức một con thuyền vượt biển ra miền Bắc, báo cáo với Trung ương, Bác Hồ, tình hình Nam Bộ và xin võ khí vào chi viện cho chiến trường Nam Bộ. Thực hiện kế hoạch đó, tỉnh Bến Tre triển khai nhiệm vụ và lựa chọn con người là yếu tố quan trọng bậc nhất. Rồi sau nhiều lần xem xét, lãnh đạo Khu 8, tỉnh ủy quyết định thành lập đoàn vượt biển có năm thành viên, gồm có bà Nguyễn Thị Định (Ba Định) bấy giờ đang là Ủy viên Ban chấp hành Liên hiệp hội phụ nữ tỉnh Bến Tre. Ông Nguyễn Văn Khước (Mười Khước) Bí thư tỉnh ủy, đại biểu Quốc hội Khu 8. Giáo sư Ca Văn Thỉnh cán bộ tỉnh Bến Tre. Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp (Chín Nghiệp) hiện đang phụ trách Y tế, ở cù lao An Hóa – Mỹ Tho. Ông Đào Công Trường công tác quân sự Khu 8. Trong “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bến Tre (1930 – 2000)” cũng có viết về sự kiện này, nhưng đáng tiếc không có nhiều thông tin đầy đủ về chức vụ của từng thành viên, ngoài mấy dòng trong thành phần có người là đại biểu Quốc hội Khu 8. Đúng là như vậy, ngay cả bác sĩ Trần Hữu Nghiệp một người có đam mê viết văn, viết báo, thành viên tham gia trong đoàn, cũng không có nhiều ghi chép về chuyến đi lịch sử này. Nhưng dù thế nào đây cũng là nhiệm vụ rất quan trọng, trong giai đoạn cách mạng miền Nam vừa có ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 với người Pháp. Những người được tham gia mở đường năm đó đã đặt nền móng mở ra con đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển về sau này.

Theo kế hoạch đoàn bắt tay ngay vào công tác chuẩn bị, tập trung về căn cứ Cồn Tra, xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Tại đây họ phân công nhau, người chuẩn bị thuyền, số khác lo bảo đảm hậu cần như gạo, đồ ăn và nước uống cho chuyến đi dự kiến một tuần ra tới miền Bắc

Cồn Tra là khu rừng ngập mặn có nhiều cây bần, cây đước, xa khu dân cư, sát bên bờ biển, và có nhiều con rạch nhỏ chảy ngoằn ngoèo nối sang Cồn Rừng, Cồn Bửng. Rừng Cồn Tra khi nước xuống, những con rạch lộ trơ đáy bùn ngập lội tới đùi, lai láng dưới ánh nắng mặt trời màu bóng như dầu nhớt, cá thòi lòi đầu to, đuôi bé từ trong các lỗ chui lên, đôi mắt thô lố đảo điên tìm mồi và khi có động chúng nhanh như mũi tên phóng ngay về lỗ. Lúc triều lên nước ùa vào các con rạch lớn nhỏ, dâng cao ngang tầm ngọn cây bần, cây đước, cảm giác như rừng rộng thêm ra. Cồn Tra xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú, được chọn làm căn cứ cách mạng vì nó cách rất xa tỉnh lỵ Bến Tre, nếu chạy xe cũng mất gần hai giờ đồng hồ, quân Pháp thời đó mới tái chiếm Bến Tre chưa đủ sức bố trí lực lượng phong tỏa hết. Hơn nữa, để đến được Cồn Tra chúng phải qua nhiều cây cầu khỉ bằng thân cây dừa, cây gỗ, xe cơ giới không thể nào dám liều vượt. Nếu lính hành quân bộ cũng phải mất mấy ngày, hay dùng tàu chiến chạy từ Hàm Luông lên rồi tiến vào các con rạch, lúc nước lên thì được, nhưng khi nước rút tàu dễ bị mắc cạn làm mồi cho Việt Minh “bùm” ngon sớt! Rõ ràng chọn Cồn Tra làm địa điểm tập kết và xuất phát của đội thuyền là hoàn toàn chính xác, vừa bí mật, vừa an toàn và lý tưởng. Tuy nhiên, tại Cồn Tra hàng ngày vẫn còn nghe được tiếng kêu rì rì trên đầu bởi con “đầm già” của quân Pháp bay trinh sát, nhưng rừng rậm, bóng cây bao phủ, từ trên cao nhìn xuống chỉ thấy một màu xanh như nước triều lên.

Về phương tiện, đội tìm mua được một chiếc ghe cũ đưa từ Gò Công lên, loại ghe rất phổ biến của ngư dân đánh bắt cá Nam Bộ lúc bấy giờ, mũi sơn màu đỏ, chạy bằng buồm nhờ sức gió, để che mắt địch.

Sau gần một tháng chuẩn bị, đến đầu tháng 4 năm 1946 đội thuyền được lệnh xuất phát ra đi từ bến Cồn Tra, xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú vượt biển ra miền Bắc. Tháng tư, theo kinh nghiệm của người đi biển là tháng đẹp trong năm, không có giông bão, biển êm, thuận gió thế mới có câu “tháng ba bà già đi biển” là vậy.

Thuyền đi vào lúc nửa đêm, trăng đầu tháng hình lưỡi liềm ngang tầm đỉnh đầu dù không sáng lắm, nhưng bù lại bầu trời có nhiều sao lấp lánh. Biển đẹp, trời trong, ai cũng cảm khái tự tin tiến về miền Bắc. Trong năm thành viên vượt biển ngày đó Nguyễn Thị Định duy nhất là phụ nữ, lại cũng trẻ nhất trong đoàn vừa bước sang tuổi 26. Chính sự đặc biệt của chuyến đi, nên cũng cần nói thêm chút về bà Ba Định. Năm hai mươi tuổi Ba Định lấy chồng tên là Ba Bích, tỉnh ủy viên tỉnh Bến Tre. Không may trong một lần đi cơ sở, Ba Bích lọt vào tay địch, chúng tra tấn dã man, nhưng trước sau ông vẫn trung thành với cách mạng không hề khai báo. Tức giận trước thái độ “ngoan cố” của Ba Bích, chúng kết tội ông là Cộng sản, rồi đưa ra giam giữ ngoài nhà tù Côn Đảo, mấy năm sau Ba Bích hy sinh tại đó.

Năm 1940 Ba Định tham gia cách mạng rồi cũng bị địch bắt, bồng đứa con trai mới bảy tháng tuổi xin gởi về nhà nhờ ngoại chăm nuôi, sau đó chúng giam cô vào nhà tù Bà Rá. Năm 1943 ra tù, nhưng vẫn bị chúng quản thúc tại địa phương. Năm 1944, cô Ba Định liên lạc được với cách mạng ra hoạt động tiếp. Năm 1945 cách mạng Tháng Tám bùng lên, cô Ba Định tham gia cướp chính quyền tại Bến Tre, rồi được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh. Một người như cô Ba Định, dù tuổi còn trẻ, nhưng thực sự tạo được niềm tin cho các thành viên trong đoàn là điều dễ hiểu.

*

Gần sáng thuyền ra đến ngoài khơi, nhìn trời lấy sao Bắc Đẩu định hướng cho thuyền đi cho khỏi lạc. Khi mặt trời lên ngang tầm cây dương thuyền cũng ra tới Bà Rịa, hòa vào hàng trăm con thuyền của ngư dân ra khơi đánh cá để tránh tàu tuần tra địch theo dõi. Đến xế chiều cùng ngày đoàn cho thuyền chạy gần bờ, nhìn vào các ngọn núi cao trong đất liền lấy hướng, nhưng bất ngờ thuyền bị bục nước bên mạn phải mũi. Thấy không thể cứ chạy thuyền như vậy sẽ có nguy cơ bị chìm, cả đoàn tập trung kéo thuyền lên sửa chữa thì trời cũng vừa tối. Tiếng gió thổi làm bụi cát reo ù ù, nghe rất xa từ trong những ngọn núi phía Tây ào tới, nhờ thế mà nhận ra mình đang ở trên bãi biển Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận. Phan Rang là vùng đất cằn khô, phía Tây có nhiều đồi núi chót dãy Trường Sơn. Từ chân núi kéo dài ra phía biển toàn là đồi cát trọc, cây cối phất phơ những loài lá nhọn nhiều nhất là xương rồng gai ít thoát hơi nước, nhờ thế mới tồn tại. Mùa nắng ban ngày trời rất nóng có khi lên tới bốn mươi độ, nhưng ban đêm nhiệt độ tụt xuống mười lăm, mười sáu độ. Trong đêm, nghe tiếng gió hú ma mị với những ai yếu bóng vía, hoặc khách đường xa lần đầu tiên đến Phan Rang càng sợ hãi vô cùng. Đêm hoang vắng chẳng thấy một bóng người, cái đói cũng bắt đầu kêu réo óc ách trong ruột gan càng thêm mệt mỏi. Ba Định lấy cơm vắt với khô cá chuẩn bị từ nhà, đem phân phát cho từng người ăn, cái lạnh chợt đến muốn đốt lửa lên cho ấm, nhưng lại sợ địch đâu đó phát hiện ra nên lại thôi. Tất cả ngồi sát bên thuyền cho đỡ gió, nhưng chưa ai nghĩ được ra cách sửa chữa con thuyền. Nỗi lo giờ mới ập tới, lại nghĩ nếu phải quay trở về thì cuộc hành trình xem ra thất bại? Bỗng Đào Công Trường đang ngồi đứng bật dậy, rồi chỉ tay về hướng Nam nhìn thấy ở đó có ánh đèn nhấp nháy:

-         Hình như có làng chài trên đó. Mình vào tìm người giúp?

Tất cả đứng bật dậy, nhìn về hướng Đào Công Trường vừa chỉ, đúng là có ánh đèn. Nhưng khi chưa ai kịp nói gì, bỗng phía sau lưng nghe có tiếng bước chân người rào rạo đạp trên cát. Mọi người lại đổ dồn về phía đó, một bóng người đen trủi đang bước tới. Bây giờ tất cả lại ngồi thụp xuống, cảm giác nghe gió cũng như ngừng thổi, biển cũng thôi vỗ sóng, hồi hộp chờ đợi điều xấu sắp xảy ra. Rồi khi cái bóng chỉ còn cách con thuyền chừng ba chục thước, bất ngờ dừng lại hình như người đó đã nhận ra điều bất thường trước mặt. Mười Khước người có nhiều kinh nghiệm trong công tác ở Khu, quay sang nói nhỏ với mọi người “cứ ngồi im khi chưa thật sự bị lộ”. Đúng vậy, cái bóng người sau đó tiếp tục đi về hướng con thuyền, trên vai vác một vật gì đó dài thượt như chiếc cần câu, khi chỉ còn cách con thuyền chừng chục bước chân. Mười Khước đứng bật dậy, hỏi:

-         Ai?

Người lạ bất ngờ sựng lại, rồi đáp:

-         Tui!

Tiếng một người đàn ông. Mười Khước hỏi tiếp:

-         Anh đi đâu?

-         Tui đi câu! 

Người kia đáp xong, rồi hỏi ngược:

-         Các ông là ai?

 Vẫn tiếng Mười Khước đáp:

-         Chúng tôi trong Long Hải, Bà Rịa đi đánh cá, không may thuyền bị thủng, gió đánh dạt ra đây.

-         Thủng thuyền à, để tui coi.

Người đàn ông nói, rồi để cái cần câu xuống cát, đến bên thuyền nhìn theo tay Mười Khước chỉ chỗ thủng, người đàn ông nghiêng ngó trong ngoài một lát, rồi đứng lên nói với mọi người:

-         May cho các ông đó, thuyền chỉ bong mất lớp hồ trét thôi. Chờ tui chút. Nhà nhà tui ở gần đây, tui về lấy keo ra trám lại, các ông quay vào Bà Rịa không sao.

Tình thế tiến không được, lui cũng không xong. Đào Công Trường vẫn cảnh giác, đưa tay chỉ về nơi có ánh đèn nhấp nháy xa xa hỏi người đàn ông lạ:

-         Nhà ông ở trong đó à?

-         Không, đó là đồn Tây! Nhà tui ở đằng ni.

Trời đất thiệt may, nếu như không gặp ông ta chắc chuyến này tự dưng nộp mạng cho quỉ. “Ông ta là người tốt”, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp thầm nghĩ trong đầu. Vẫn Mười Khước nói:

-         Cảm ơn ông, nhờ ông giúp giùm.

Người đàn ông quay người bước đi, sau đó là những giây phút chờ đợi còn hồi hộp căng thẳng vô cùng, nhưng còn cách nào khác đâu. Phương án xấu nhất cả đội từng nghĩ phải bỏ con thuyền, rồi lên đường lộ tìm cách quay về. Biển đêm hình như sóng vỗ mạnh hơn, nhưng không lâu sau người đàn ông đó xuất hiện trên tay cầm một chiếc hộp nhỏ, rồi bảo đây là keo trám thuyền tuyệt hảo, chỉ mười phút sau công việc đã xong:

-         Các ông đi được rồi đó.

-         Cảm ơn ông.

Lại Mười Khước nói.

-         Không có chi, tui cùng là bạn thuyền đánh cá. Các ông ra khơi bình an nhé.

Con thuyền trở về biển cả, ra tới ngoài khơi trời cũng vừa sáng, rồi lấy hướng Bắc gặp gió thuận buồm lướt sóng vo vo. Nhìn Ba Định rất vui, mà ai cũng vui cả, khi mình vừa thoát qua cơn nguy hiểm. Ba Định nói với mọi người:

-         Em không dám lên tiếng, sợ ổng nhận ra mình là phụ nữ. Nhờ anh Mười cả đó.

Mười Khước là người linh hoạt cứu nguy gang tấc, trường hợp này càng phải tế nhị, Ba Định hiểu nên vẫn ngồi im thít, nhưng nói sao thì nói may cho đoàn đêm ấy ở biển Phan Rang họ gặp được người dân tốt. Sang chiều ngày thứ hai, thuyền tới được Phú Yên ngày đó là vùng tự do của ta sau cách mạng Tháng Tám, địa bàn này bộ đội Khu 5 đang đóng giữ.

Trải qua mấy chục năm sau khi nước nhà thống nhất, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nhớ lại con thuyền hành trình vượt biển ngày đó có phần may mắn. Từ Cồn Tra ra tới Phú Yên đoạn đường không phải là dài, thời tiết thuận gió, quân Pháp mới trở lại Việt Nam việc bố phòng tuần tra trên bộ cũng như trên biển còn nhiều sơ hở. Đêm ở Phan Rang, Ninh Thuận “hút chết”, rồi cũng may từ Khu 8 khi đoàn xuất phát ta đã có thông tin liên lạc báo ra trước Khu 5, nên khi thuyền vào tới bến Sông Cầu đích thân Tư lệnh Nguyễn Chánh ra tận nơi đón đoàn vô cùng thân thiết. Ở đây đoàn được bố trí nơi ăn, nơi nghỉ đàng hoàng mấy ngày liền để lấy lại sức. Ba ngày sau Tư lệnh Nguyễn Chánh đến gặp cho biết thêm, Trung ương chỉ đạo đoàn để lại thuyền, rồi lên tàu lửa đi tiếp ra miền Bắc.

Để giữ bí mật, chuyến tàu đưa đoàn rời ga Phú Yên vào bảy giờ tối theo lộ trình chạy hai đêm một ngày và dự kiến tới ga Hàng Cỏ, Hà nội vào lúc nửa đêm ngày hôm sau. Phú Yên thời kỳ này còn khá yên tĩnh, quân Pháp chưa có nhiều hoạt động tiến ra quấy phá, tàu chạy suốt đêm cũng không thấy xảy ra sự cố nào về kỹ thuật, trừ mỗi khi tới các ga xép dừng cho hành khách xuống, tới trưa ngày hôm sau tàu đến Đà Nẵng dừng nửa giờ bổ xung nhiên liệu, nước rồi đi tiếp. Tính ra chín năm kể từ khi Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, tốt nghiệp “đốc tờ” Paris nước Pháp trở về Trường Đại học Y khoa Đông Dương Hà Nội, rồi từ Hà Nội lên tàu lửa về Sài Gòn nay lại được ngồi trên con tàu trở ra miền Bắc, nhưng hoàn cảnh giờ đây đã khác rất nhiều. Cũng đất trời ấy, cũng những con người ấy, miền Trung, miền Bắc không khí tự do qua mỗi xóm làng, phố thị, nhìn thấy phấp phới cờ đỏ sao vàng tung bay. Đêm Hà Nội yên tĩnh, thanh bình, nhưng cảm giác người Hà Nội vẫn như không ngủ. Chắc chắn thế. Nam Bộ quân Pháp dưới sự bảo trợ nước Mỹ, núp bóng quân Anh quay trở lại, chiến tranh sẽ xảy ra bất cứ lúc nào. 

Một tiếng còi tàu rúc vang, báo hiệu sắp vào ga Hàng Cỏ. Mười phút sau tiếng sập xình chậm dần rồi dừng hẳn. Cảm xúc của Trần Hữu Nghiệp chợt vỡ òa. Chín năm, đúng là chín năm lại trở ra Hà Nội, nhưng Hà Nội bây giờ là Thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. 

*

Vừa xuống tàu bước ra ngoài sân ga, đoàn đã thấy có xe của Chính phủ ra đón. Đó là chiếc Jeep màu xanh quân sự, loại phương tiện chiến tranh chiến lợi phẩm trông xương xẩu ta thu từ quân đội phát xít Nhật. Mười Khước tuổi cao ưu tiên ngồi ghế trước, phía sau có hai hàng ghế nằm dọc theo thân xe mỗi bên hai người khá thoải mái, từ ga về khu nhà nghỉ Chính phủ cũng không mấy xa trên đai lộ La République. Về tới nơi đã hai giờ sáng, nhưng ở nhà khách vẫn chuẩn bị sẵn cho đoàn món phở bò ăn đêm rồi đi ngủ. Hai đêm một ngày trên tàu chập chờn lúc tỉnh lúc say đã thấm mệt, được ăn phở nóng, tắm mát vòi sen nên lăn ra giường là ngủ như chết. Sáng hôm sau nghe tiếng chim lích chích ngoài khung cửa sổ, rồi tiếng chân người lộp cộp nện trên sàn nhà gỗ tới cửa phòng từng người, giọng cô nhân viên phục vụ trong veo mời đi ăn sáng mới bật dậy. Trưa đó được thông báo sẽ có cán bộ trên Trung ương tới thăm mời cơm, ai cũng đoán già đoán non “chắc mấy bác bên Quốc hội hay Chính phủ đến?”.

Mấy chục năm trôi qua, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp không thể quên lần ấy. Đúng giờ cả đoàn vừa bước vào phòng khách đã thấy có nhiều người, nhưng mắt ai cũng đổ dồn ra phía cửa hình như còn đang chờ một người nào đó rất quan trọng? Một lát sau, từ ngoài cửa xuất hiện một ông già trong bộ đồ màu nâu ka ki giản dị. “Bác Hồ”, người vừa nói đó là tiếng Ba Định. Đúng là Bác Hồ! Bác tươi cười rồi bước nhanh về phía mấy anh em đoàn Nam Bộ, đang đứng như chôn chân xuống đất vẫn chưa hết ngạc nhiên và xúc động. “Bác”, không ai bảo ai, tự dưng đều reo lên khe khẽ. Bác bắt tay từng người một, phong thái ung dung, gần gủi và thân thiết. Bác hỏi thăm sức khỏe từng người “Đi có vất vả lắm không?”, “Có ai say sóng không?”, “Có gặp nguy hiểm trục trặc gì không?”. Rồi bất chợt Bác quay sang Ba Định nói: “Nào ưu tiên cháu gái nói trước”. Ba Định thưa với Bác: “Không ạ, chỉ có thuyền bị thủng nước nhẹ, nhưng may gặp được một người dân giúp đỡ, nên thuyền chúng cháu tiếp tục ra tới Phú Yên an toàn”. Nghe Ba Định nói, Bác bảo: “Nhân dân ta ở đâu cũng tốt”. Bác còn khen phụ nữ Nam Bộ giỏi việc nhà, giỏi cả việc nước. Tiếp theo Bác nói về tình hình hiện tại tuy ngắn chỉ vài ba phút, nhưng rõ ràng dễ hiểu. “Người Pháp được người Mỹ chi tiền trang bị vũ khí, để chúng quay trở lại Việt Nam xâm lược nước ta thêm lần nữa. Chúng ta không còn con đường nào khác, là phải chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài”. Gặp được Bác, nhìn thấy Bác khỏe, lại được Bác mời cơm, niềm vui quá lớn mọi người quên cả ăn nên Bác giục: “Ăn nhiều vào để có sức làm việc, công tác”. Tình cảm của Bác như người cha với những đứa con xa là vậy. Cuối bữa cơm trước lúc ra về, Bác còn nhắc: “Các đồng chí bên Chính phủ, Quốc hội, quan tâm tốt cho đoàn các cháu Nam bộ nhé”. Dừng một lát Bác nói thêm: “Thế nào Trung ương và Chính phủ cũng gửi vũ khí vào Nam, nhưng đất nước còn nghèo, các cô, các chú về phải đánh Pháp cho giỏi, cướp lấy súng địch trang bị lại cho mình, cái vốn đó mới nhiều và nhanh nhất”.

Ở lại Hà Nội một thời gian, được đi thăm một số nơi danh thắng lịch sử, nhưng chưa dám đi xa, vì sau Hiệp định Sơ bộ (ngày 6 tháng 3 năm 1946) tình hình đất nước rất phức tạp, hơn nữa còn phải giữ bí mật nhiệm vụ của đoàn. Tháng năm Hà Nội trời ít mưa, ban ngày nhiệt độ khá nóng. Đứng ở lan can nhà khách, nghe tiếng ve kêu ran ran trên hàng cây sấu bên đường vọng vào, bỗng ký ức ập đến chín năm về trước khi Trần Hữu Nghiệp còn học Trường Đại học Y khoa Đông Dương. Chính nơi đây chỗ đoàn đang ở cách Phủ Chủ tịch không xa, trước kia là Dinh Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, ngày đó Trần Hữu Nghiệp và nhóm sinh viên Giang Văn Xường lúc rảnh vẫn thường đạp xe băng qua đại lộ La République, nhìn sang bên kia là Quảng trường Puginir thành phố. Cái dinh đồ sộ nguy nga lộng lẫy, kiến trúc theo mô típ phục hưng lẫn chút tân thời. Dinh được xây dựng vào năm 1900, tới sáu năm sau mới hoàn tất, trở thành biểu tượng sức mạnh quyền uy của nước Pháp trên lãnh thổ Việt Nam và toàn xứ Đông Dương. Khi Nhật đảo chính Pháp, Dinh Toàn quyền Đông Dương lại trở thành “Dinh Toàn quyền Nhật”. Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Minh cướp chính quyền từ tay Nhật và nay là nơi làm việc của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thật hạnh phúc, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp không còn đạp xe lòng vòng như “cỡi ngựa xem hoa” mà giờ đã trở thành hiện thực, những đứa con miền Nam mới từ trong ra đang ngồi ăn uống, nghỉ ngơi tại đây. Lại thêm một vinh dự nhân ngày 19 tháng 5 năm 1946, đoàn đến chúc thọ Bác Hồ, rồi dùng cơm cùng Bác. Cuối bữa, Bác nói với đoàn lời nhắn gởi tới đồng bào miền Nam: “Người Pháp vẫn chưa chịu từ bỏ âm mưu thống trị nước ta, nhưng nhân dân Việt Nam quyết không sợ, quyết không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ! Chúng ta phải sẵn sàng cho một cuộc kháng chiến lâu dài, giành độc lập dân tộc trên cả nước!”.

*

Đoàn cán bộ vượt biển từ Nam Bộ ra Bắc, sau ngày gặp Bác Hồ, Trung ương Đảng, Chính phủ bất ngờ có quyết định giữ giáo sư Ca Văn Thỉnh và bác sĩ Trần Hữu Nghiệp ở lại miền Bắc. Tháng 12 năm 1946, Mười Khước, Ba Định, Đào Công Trường trở về Nam vẫn theo con đường bằng tàu lửa. Theo kế hoạch từ Hà Nội vào đoàn xuống ga Phú Yên, rồi tới bến Sông Cầu nơi có con thuyền ngày từ Nam ra đang tập kết tại đó. Khu 5 theo lệnh của Trung ương, Bộ Quốc phòng, cũng đã chủ động đưa xuống thuyền gần mười tấn vũ khí, còn bổ sung thêm hai đồng chí mới là Võ Đăng Kỳ và Lâm Thanh Sơn.

Ở lại miền Bắc, giáo sư Ca Văn Thỉnh được Trung ương, Chính phủ giao nhiệm vụ làm quyền Bộ trưởng Giáo dục, kiêm Vụ trưởng Vụ Sư phạm. Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp được phân công nhận công tác bên Cục Quân y, Bộ Quốc phòng Quân đội Nhân dân Việt Nam, kiêm Tổng Thanh tra Quân Dân y Việt Nam. Nhớ lại khoảng thời gian tuyệt vời này, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nói đây thực sự là một trải nghiệm khó quên, được làm quen, gần gủi với những chiến sĩ. Nhưng quan trọng nhất, để ông tích lũy thêm nhiều kiến thức trong công tác quản lý, công tác chỉ huy, nhiệm vụ quân dân y trong điều kiện chiến tranh sau này khi có lệnh lại trở về miền Nam phục vụ. 

 

   Mục Lục