Nguyên Minh - một văn nhân lạc thời

 

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

 

      Tôi gặp nhà văn Nguyên Minh lần đầu tiên cách đây cũng đã 12 năm. Lần đó, sau nhiều năm ẩn cư ở Kontum, nhà văn Trần Duy Phiên quyết định “xuống núi”, về sống ở Sài Gòn. Ông mời một số văn hữu đến nhà người bạn thân của ông là nhà văn Sâm Thương ở Hòa Hưng gặp gỡ, uống rượu và ra mắt tập truyện ngắn Ngõ đạo miền hoang dã.

      Khi mọi người vừa ngồi vào bàn thì ngoài cổng xuất hiện một vị khách có dáng người nhỏ nhắn, linh hoạt, với đôi mắt có phần ngơ ngác trước cuộc đời. Trần Duy Phiên giới thiệu: “Đây là anh Nguyên Minh”. Tôi đứng dậy chào, buột miệng: “Nguyên Minh của Ý Thức, của Đám tang đa đa”. Vậy là sau gần 40 năm đọc văn, hôm ấy tôi mới diện kiến được người.

      Khoảng đầu những năm 1970, ở thị xã Quảng Ngãi nhỏ bé và trầm lặng của tôi, thật lạ là trong thời chiến mà mấy hiệu sách ở tỉnh vẫn nhận về bán không chỉ những tác phẩm văn học nổi tiếng mà cả những tạp chí văn nghệ in tận Sài Gòn. Tuổi học trò của tôi bước đầu tiếp xúc với đời sống văn chương khi mua được ở đó những tờ tạp chí Văn, Đối Diện, Trình Bầy, Ý Thức, Văn Mới

Trên nguyệt san Văn Mới số ra mắt (khổ báo giống Bách Khoa, Trình Bầy), với những tác phẩm của Sâm Thương, Thế Vũ, Tiêu Dao, Nguyễn Mộng Giác, Quán Như, Nguyễn Trọng Văn…, ban chủ biên viết lời mở đầu “Con đường chúng tôi đi”: “Chúng ta không thể và không có quyền ru ngủ chính chúng ta, cũng như không thể và không có quyền ru ngủ ai khác thêm nữa. Cuộc đời chung quanh, trước mặt, sau lưng chúng ta đó, cuộc sống mầu nhiệm quý báu nơi chúng ta đó, hãy đón nhận nó, hãy sống nó, hãy lặn hụp trong nó, hãy hòa tan với nó như muối trong nước. Hãy rung động thực sự với nó, vì nó. Với tất cả khiêm nhường và vô vụ lợi. Hãy thôi đi, hãy ngừng lại những kinh nghiệm vay mượn, tưởng tượng, giả tạo và hời hợt để đi tìm những kinh nghiệm đích thực, sống động và sâu sắc. Cái rung động mà chúng ta muốn người khác cảm thấy, chúng ta phải cảm thấy nó trước trong chúng ta. Làm sao chúng ta có thể lôi cuốn được nhịp đập con tim người khác trong khi cái nhịp đập con tim chúng ta chỉ là cái nhịp đập rời rạc, vay mượn của những người bệnh hoạn, thiếu máu, bất lực!”. (“Con đường chúng tôi đi”, Văn Mới số 1, ngày 15-10-1971, tr. 8).

Một năm trước đó Ý Thức số 1 (khổ báo 14 x 20 giống Văn, Đối Diện; về sau chuyển thành khổ 19 x 19) do Nguyên Minh làm tổng thư ký, in ngay trên trang bìa một tuyên ngôn rất can trường: “Phải dành cho văn học nghệ thuật một chỗ đứng, một vị trí vượt lên trên những tranh chấp chính trị giai đoạn. Chỗ đứng ở ngay trong tập thể quần chúng, hòa mình với tình tự chung để vận động trở thành sức mạnh văn hóa nuôi dưỡng truyền thống Việt Nam trước đe dọa từ mọi phía” (Ý Thức số 1, ngày 01-10-1970).

  Trên tờ báo này, tôi bắt đầu làm quen với sáng tác của Trần Hoài Thư, Ngụy Ngữ, Lữ Kiều, Lữ Quỳnh, Đỗ Nghê, Lê Ký Thương… Chính các nhà văn đàn anh đó đã gieo vào tuổi 15 của tôi những ý niệm về bi kịch chiến tranh, nhập cuộc, phản kháng, tả khuynh, hữu khuynh… mà sau này tôi mới ngày càng hiểu rõ những hàm nghĩa sâu xa và những hệ lụy phức tạp của nó.

      Đọc Nguyên Minh thời gian đó, tôi nhớ hai tác phẩm có đề tài trái ngược nhau: truyện ngắn Côi cút tuổi già và truyện vừa Đám tang đa đa. Thiên truyện thứ nhất của một cây bút chưa tới 30 tuổi mà cảm khái về số phận người già cô quạnh trong chiến tranh, sau này được chọn in trong tuyển tập Văn Miền Nam Thời Chiến (tập hai, 2009). Thiên truyện thứ hai lại dành để tái hiện hình ảnh những nhân vật thiếu nhi hồn nhiên ở một miền quê. Về sau tôi có góp ý với Nguyên Minh, không chỉ nên tập hợp in lại phần truyện ngắn mà nên tái bản cả Đám tang đa đa vì văn học cho thiếu nhi hiện nay rất cần những tác phẩm trong sáng và giàu tình nhân ái như vậy.

      Tôi trở thành cộng tác viên của Nguyên Minh từ khi ông đứng ra chủ trương tập san Quán Văn năm 2011. Hôm ra mắt Quán Văn số 1, đề ngày 01-10-2011, ở Café Bros, một buổi họp mặt rất đông vui, tôi hỏi ông có ẩn ý gì khi ghi ngoài bìa số 001 (giống như điệp viên 007!). Ông trả lời hóm hỉnh: Mình ghi vậy là ngầm hứa rằng Quán Văn sẽ sống đến 3 con số, nghĩa là ít nhất phải ra đến số 100, chứ không vắn số như Ý Thức. Tôi bật cười, chúc ông toại nguyện với dự định của mình.

      Quán Văn quả là một tờ báo đặc biệt. Nếu Ý Thức trước đây là một bán nguyệt san văn học nghệ thuật được cấp giấy phép chính thức của Bộ Thông tin Việt Nam Cộng hòa, thì Quán Văn là một ấn phẩm do nhà xuất bản cấp phép, gần như là một tuyển tập sáng tác - tư liệu - nghiên cứu văn học định kỳ. Chín năm qua Quán Văn đã trải qua ba nhà xuất bản, ở nhà xuất bản gần nhất lại trải qua ba chi nhánh quản lý khác nhau.

      Bước vào lĩnh vực báo chí, có thể nói Nguyên Minh là một văn nhân lạc thời, không phải hiểu theo nghĩa “không gặp thời”, mà theo nghĩa “làm khác thời”, “không theo thời”. Thời làm Ý Thức, Nguyên Minh tuổi 30 lao vào nghề báo, làm đầu tàu tập hợp bạn bè cùng chí hướng, sau một thời gian in báo ronéo, chuyển sang in typo rồi offset trang nhã mà nội dung thì nóng hổi không khí chiến tranh của đất nước và khát vọng hòa bình, hòa giải, hòa hợp dân tộc. Giữa những khó khăn về chính trị, tài chính vây bủa mà phát hành được 24 kỳ, tirage mỗi kỳ 5.000 bản, quả là một sự mạo hiểm. Cùng lúc đó, Nguyên Minh còn chủ trương Cơ sở xuất bản Ý Thức, in sách của một số nhà văn trẻ.

Đến thời làm Quán Văn, Nguyên Minh đã qua ngưỡng 70, bạn bè ngày cũ ly tán, chỉ có thể đóng góp một phần bài vở; lớp cộng tác viên mới phải gây dựng từ đầu, lại đương đầu với những khó khăn mới của hoàn cảnh: quy chế quản lý, kỹ thuật ấn loát và nhất là thị trường văn học khó tính, khó lường. Vậy mà đến nay, trong vòng chín năm, Quán Văn đã duy trì và tồn tại đến 75 số thì quả là một kỳ tích. Từ 1975, trước và sau Quán Văn, nói riêng ở TP Hồ Chí Minh, những tuyển tập văn chương dạng này thường số kỳ xuất bản không đếm được quá số ngón của hai bàn tay.

      Trong thị trường báo chí hiện nay, Quán Văn là một hiện tượng đặc biệt còn vì đây là tờ báo mà những người viết tự nguyện góp bài như góp món ăn của mình cho bữa tiệc tinh thần chung để cùng thưởng thức mà không đòi hỏi nhuận bút. Vậy mà chủ biên Nguyên Minh xây dựng được mạng lưới cộng tác viên ở nhiều miền đất nước, cả ở hải ngoại. Nếu làm một danh mục các tác giả, ta sẽ thấy những tên tuổi ở miền Tây và miền Đông Nam bộ, ở TP Hồ Chí Minh, ở miền Trung và Tây nguyên, ở Hà Nội và miền Bắc. Nhờ vậy mà Quán Văn ra được các số báo đặc biệt về những cây bút gắn bó với hình ảnh sông Hương, sông Mường Mán, sông Dinh, sông Côn, sông Hàn, sông Ba, sông Cái, sông Trà, sông Thạch Hãn, kênh Nhiêu Lộc, sông nước miền Tây… Nếu có điều gì cần góp ý, thì đó là Quán Văn nên tăng thêm chất trẻ để thu hút được các thế hệ độc giả hậu bối.

      Từ bài viết “Truyện ngắn Chinh Ba: những dụ ngôn đa nghĩa” trên số 1, tính đến nay tôi đã được đăng trên Quán Văn 30 bài, bao gồm tản văn và tiểu luận phê bình. So với những cộng tác viên tích cực mà số báo nào cũng xuất hiện, 30 bài không phải là nhiều. Nhưng trong những người viết từ số đầu, có lẽ tôi cũng thuộc loại cộng tác viên bền bỉ. Chỉ tiếc là do điều kiện công việc và sức khỏe, tôi không thể tham gia những cuộc du khảo và giao lưu ở khắp mọi miền như những cây bút thân tín của Quán Văn, để có những kỷ niệm sâu đậm mà kể lại nhân dịp mừng nhà văn Nguyên Minh tròn 80 tuổi.

Sợi dây kết nối tôi với Quán Văn chỉ là những trang viết. Và sâu xa hơn, sợi dây kết nối đó gắn bó được là nhờ thông qua hình ảnh riêng của Nguyên Minh, bên cạnh những văn hữu cùng thế hệ với ông thời Ý Thức, những người đã góp phần nuôi nấng giấc mơ hòa bình và hòa hợp dân tộc trong lòng tôi từ những ngày trẻ tuổi.

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

(Trích từ sách Nguyên Minh – tác giả và tác phẩm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tháng 9-2020.)

 

 Tác giả gởi cho viet-studies ngày 21-9-20