Tự truyện Osho

 

 Hồ Anh Thái

 

 

Điểm sách: Tự truyện Osho, Đỗ Tư Nghĩa dịch, Khai Tâm và NXB Hội Nhà Văn 2020.

 

Người ta có thể đã đọc nhiều sách của Osho, nhưng ít biết về cuộc đời ông. Cuốn sách này hé lộ phần nào tiểu sử của Osho, nhưng phần tiểu sử vẫn chỉ thoáng qua, dành nhiều chỗ hơn cho luận lý. Ấn tượng hơn cả là bảy năm đầu đời ông được nuôi dưỡng ở nhà ông bà ngoại với lối giáo dục tự nhiên không cần uốn nắn, thậm chí không cho đến trường. Ngay từ bé đã bộc lộ thiên tài về lý luận, hùng biện và những phẩm chất của bậc thầy dẫn dắt chúng sinh.

Sách còn có phần biên niên về cuộc đời Osho, những thăng trầm khi ông tổ chức công xã ở Mỹ, và ngay cả ở Ấn Độ, những hành trình không được chào đón qua nhiều nước. Nhưng rốt cuộc luận lý của ông đã có sức lan tỏa mạnh mẽ trên toàn thế giới.

Nếu đã cầm lên một cuốn sách của Osho, người ta bị lôi cuốn và buộc phải đọc từng dòng cho hết cả cuốn sách. Dù nên đọc toàn bộ một cách cẩn thận, cũng xin trích một vài đoạn làm ví dụ:

Osho còn nhỏ, ông ngoại mất: “Khi tôi cảm thấy rằng ông không còn thở nữa, tôi nói với bà tôi: “Con xin lỗi Nani, nhưng hình như ông không còn thở nữa”.

Bà nói, “Cái đó hoàn toàn tốt thôi. Con không cần phải lo lắng. Ông đã sống đủ, không cần phải hỏi xin thêm”. Bà cũng bảo tôi, “Hãy ghi nhớ, bởi vì có những khoảnh khắc không được phép quên: đừng bao giờ hỏi xin thêm. Những gì đang có đó, cũng đủ lắm rồi” (trang 65).

Cũng còn bé, Osho được một linh mục hỏi “Con có muốn trở nên giống như Jesus Christ không?” Cậu bé trả lời: “Tôi không có mong ước bị đóng đinh. Và một người bị đóng đinh, hẳn có một cái gì đó không ổn với ông ta. Nếu không thế thì ai quan tâm đến việc đóng đinh ai? Nếu toàn đất nước ông ta, nhân dân ông ta quyết định đóng đinh ông ta thì điều đó có nghĩa là, trong người đàn ông này phải có một cái gì đó không ổn. Ông có thể là một người dễ mến, có thể là người tốt, nhưng hẳn có một cái gì đó đã dẫn ông đến việc bị đóng đinh. Có lẽ ông có một bản năng tự vẫn. Những người có bản năng tự vẫn thường không đủ can đảm để tự vẫn: nhưng họ có thể xoay xở để người khác mưu sát họ. Và rồi ta sẽ không bao giờ phát hiện ra rằng họ có một bản năng tự vẫn, rằng họ xúi giục ta giết họ, để cho trách nhiệm đổ xuống ta” (trang 86).

“Một vị thầy là một người được kính trọng một cách tự nhiên, cho nên một vị thầy không thể đòi hỏi sự kính trọng. Nếu người thầy đòi hỏi sự kính trọng, thì ông ta chỉ đơn giản chứng tỏ rằng ông ta không phải là một vị thầy. Ông ta đã chọn sai nghề, nó không phải thiên chức của ông. Định nghĩa của một ông thầy chính là: một người được kính trọng một cách tự nhiên.

… Nghề giáo là một nghệ thuật. Không phải ai cũng có thể là một người thầy, nhưng người ta cần đến hàng triệu “người thầy” bởi vì cần phải giáo dục phổ thông.

Trong quá khứ có rất ít “người thầy”. Người ta thường đi hàng nghìn dặm để tìm một người thầy, để được ở bên cạnh ông ta. Có sự kính trọng rất lớn, nhưng sự kính trọng tùy thuộc vào phẩm chất của vị thầy. Môn đệ hay học trò không bị bắt buộc phải kính trọng thầy. Sự kính trọng khởi lên một cách hồn nhiên” (trang 177).

“Mọi người không thể là thiên tài – đó là những phẩm chất được ban cho từ lúc chào đời. Nhưng mọi người có thể chứng ngộ - đó là điều duy nhất mà chủ nghĩa cộng sản có lý. Và thật khá kỳ lạ, đó là cái duy nhất mà chủ nghĩa cộng sản phủ nhận” (trang 211).

“Không nên hạ thấp sex từ lĩnh vực của tình yêu sang lĩnh vực của luật pháp. Cái khoảnh khắc mà bạn “phải yêu” một người đàn bà bởi vì cô ta là vợ của bạn – chứ không phải là bởi vì bạn đơn giản yêu cô ta – thì nó là mại dâm, mại dâm được hợp pháp hóa. Tôi vẫn mãi chống lại mại dâm, bất luận nó được hợp pháp hóa hay phi pháp. Tôi tin tưởng vào tình yêu. Nếu hai người yêu nhau, thì họ có thể sống cùng nhau một khi họ còn yêu nhau. Cái khoảnh khắc mà tình yêu biến đi rồi thì họ nên chia tay một cách lịch sự” (trang 226).

“Tôi không phải là một “Phật tử”. Và Phật Gautama cũng không có ý định tạo ra những Phật tử, hoặc tạo ra một tôn giáo có tổ chức, định chế. Thậm chí, hai mươi lăm thế kỷ trước, Ngài chưa bao giờ tạo ra một tôn giáo có tổ chức. Trong khoảnh khắc chân lý được tổ chức, nó trở thành một sự dối trá. Một tôn giáo có tổ chức không là gì khác hơn một thứ chính trị được che giấu, một sự bóc lột tàn tệ bởi giới tăng lữ. Họ có thể là những shankara (giáo sĩ, đạo Hindu), imam (giáo trưởng, đạo Hồi), rabbi (giáo sĩ, đạo Do Thái), hay giáo hoàng, chẳng có sự khác biệt nào” (trang 443).

Làm di chúc trước khi ra đi, Osho nói: “Bạn không thể tránh một truyền thống, nó nằm ngoài sự kiểm soát. Một khi bạn qua đời, bạn không thể ngăn cản những gì mà hậu thế sẽ làm. Thay vì để nó rơi vào tay kẻ ngu dốt, tốt hơn bạn nên đưa ra đường lối đúng” (trang 448).

Chỉ một người giàu hoặc vật chất hoặc trí tuệ mới có thể đến với tôn giáo (trang 251).

Các tôn giáo phương Tây như Thiên Chúa giáo hoặc các tôn giáo phi Ấn Độ đều nghèo nàn vì không phát triển kỹ thuật thiền định, trong khi các tôn giáo phương Đông như Phật giáo, Jain, Hindu, Zen sinh ra trong sự giàu có (trang 347).

Phật nói có một thực tại đích thực: một khi ta biết đến thực tại đích thực thì “cái mệnh danh là thực tại” này trở thành huyễn cảnh, trở thành phi thực (trang 135).

 

 

 Hồ Anh Thái gửi cho viet-studies ngày 12-12-20