Tự do và quyền lực

 

 Phạm Phú Khải

 

 

Để một quốc gia chuyển từ độc tài sang dân chủ thì quốc gia đó phải được trang bị bằng một số yếu tố căn bản, từ tư tưởng chính trị đến cơ cấu xã hội cũng như dân tình (trí, khí, sinh).

 

Trong các yếu tố căn bản nhất này, sự thẩm thấu của người dân về các khái niệm trừu tượng như tự do, dân chủ và quyền lực là nền tảng. Càng nhiều người dân hiểu biết về nó càng tốt. Thiếu sự hiểu biết và nhận thức sâu sắc thì mọi nỗ lực để dân chủ hoá xã hội, chính trị và văn hoá sẽ khó thể nào đưa đến kết quả mong muốn.

 

Quan niệm quyền lực

 

Quyền lực được phân tích và tranh luận rất sâu và rất rộng trong lĩnh vực khoa học chính trị và khoa học xã hội.

 

Chữ quyền lực/sức mạnh (power) bao hàm nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng tựu chung nó đề cập đến ảnh hưởng (influence) và điều khiển (control).

 

Quyền lực có hai ý niệm chính (1): một, năng lực (capacity); hai, quyền (right). Liên quan đến điểm một, nó là khả năng hay năng lực để tác động, hay điều khiển, suy nghĩ và hành động của người khác, cho dù người đó không muốn. Liên quan đến điểm hai, nó là quyền tối cao của một cá nhân hay một chính quyền trong một vấn đề, lĩnh vực nào đó.

 

Quyền lực có thể điều khiển, chi phối hay chỉ đạo nhân lực hay tài nguyên/lực của một nhóm người, cộng đồng, đất nước hay nhân loại về một vấn đề nào đó theo một xu hướng nhất định nào đó.

 

Quyền lực được phân loại tổng quát như quyền lực kinh tế (hay tổng quát là vật chất), quyền lực chính trị, quyền lực kiến thức (Foucault cho rằng quyền lực là kiến thức, quyền lực có thể tạo ra các chế độ sự thật), quyền lực quân sự, quyền lực ý thức hệ v.v...

 

Một cách phân loại khác là quyền lực mềm (như văn hóa), quyền lực cứng (như quân sự). Mới đây có học giả còn đề nghị quyền lực năng lượng (2).

 

Quyền lực thể hiện qua ba hình thức khác nhau: vũ lực (quân sự), ảnh hưởng (ý tưởng, kiến thức, chính nghĩa hay khả năng thuyết phục) và quyền năng (chức vụ hay quyền hạn đang nắm giữ).

 

Quyền lực có thể thiện hoặc ác. Cuộc tiến hoá của con người tuy có những lúc chỉ thuần tuý là chiến tranh ý thức hệ (như trong thời chiến tranh lạnh), nhưng động lực đàng sau các tranh chấp này vẫn là bản chất con người: thiện, ác và tính toán. Động lực nào để một số nhà lãnh đạo quốc gia đi đến những quyết định quan trọng trong lịch sử, từ Abrahm Lincoln muốn xoá bỏ chế độ nô lệ cho đến Adolf Hitler xây dựng các lò sát sinh người Do Thái một cách quy mô cho đến Nelson Mandela chấm dứt chính sách kỳ thị chủng tộc và tha thứ? Động lực nào mà những người tin tưởng vào thuyết cộng sản lý tưởng như thế giới đại đồng và không phân biệt giai cấp để rồi khi thực hiện chính nó là tác nhân và chủ nhân của tội ác lớn nhất đối với nhân loại từ xưa cho đến nay?

 

Nghiên cứu lịch sử và văn minh nhân loại, nhất là bản chất vô cùng phức tạp và đa dạng của con người, các triết gia tiên phong của thời cổ Hy Lạp như Aristotle cho đến thời (cuối) Phục hưng và Khai sáng như Thomas Hobbes, John Locke, Edmund Burke, John Stuart Mill, Francois Marie Arouet de Voltaire, vân vân, đều ngờ vực quyền lực.

 

Aristotle thì cho rằng “Đối với con người, khi hoàn thiện, thì là loài động vật tốt nhất, nhưng khi bị tách ra khỏi luật lệ và công lý, nó là tệ nhất trong tất cả.” Hobbes thì nhấn mạnh rằng cuộc sống trong trạng thái tự nhiên sẽ là “cô đơn, nghèo nàn, xấu xa, hung tợn và ngắn ngủi”.

 

Trước thời văn minh Hy Lạp cho đến thời trung cổ, tuy có những gian đoạn ngắn ngủi của nền dân chủ ban đầu như Athen (mặc dầu tiến bộ nhưng phụ nữ và nô lệ bị loại trừ), các lãnh chúa, vua chúa hay nói chung là giới cai trị coi người bị trị không ra gì. Khi lên cầm quyền, giới cai trị hầu như nắm mọi quyền sinh sát trong tay. Tự do cá nhân hoàn toàn không hiện hữu.

 

Quan niệm tự do

 

Điều kiện căn bản để sống còn đối với con người là không khí, nước uống, thức ăn, sau đó đến quần áo, chỗ ở và sau đó là những thứ cao xa hơn. Nhưng con người không giống các loài động vật khác ở chỗ năng lực tinh thần: có trí nhớ và biết suy nghĩ. Khi năng lực tinh thần càng cao, trí tưởng tượng càng phong phú, khả năng nhận xét càng khoa học và lý luận càng hệ thống, người ta càng thấy có nhu cầu được suy nghĩ tự do, độc lập ngoài mọi khuôn khổ. Qua kinh nghiệm và nhận thức, các nhà tư tưởng lớn nhận ra rằng các khuôn khổ suy nghĩ hay thước đo trước đó đều có thể hay và tốt nhưng không nhất thiết là mẫu mực hay chân thiện mỹ để tuân theo.

 

Các triết gia tiên phong ngay cả thời cổ Hy Lạp như Aristotle nhận ra rất rõ rằng chỉ có tự do mới thật sự giải phóng con người ra khỏi bóng tối, u mê. Không phải ai có tự do cũng có nghĩa là được khai sáng, nhưng tự do là điều kiện căn bản cho toàn xã hội.

 

Tuy nhiên, tự do trong trạng thái tự nhiên (tuyệt đối hay không giới hạn), một mặt, sẽ dẫn đến hậu quả như Hobbes biện luận. Nó có khả năng dẫn đến tình trạng xâm phạm quyền tự do của người khác mà nhiều người, kể cả Abrahm Lincoln, đã từng hùng biện. Mặt khác, không có tự do mà chỉ có chuyên chính (mọi thứ đều do người khác quyết định, ban phát) thì con người chẳng khác gì nô lệ.

 

Không có tự do để suy nghĩ, lý luận, phân tích, trình bày các tư tưởng, khám phá mới, cho dù có ngược với các khung sườn suy nghĩ hay các bảng giá trị cũ, thì sẽ không có tiến bộ, nhất là về mặt nhân văn, như đã thấy trong thời trung cổ, và ngay cả dưới các chế độ độc tài toàn trị.

 

Nói cách khác, tự do của người A không đồng nghĩa với tự do của người B. Tự do của chế độ cai trị/chính quyền không đồng nghĩa với tự do của người bị trị/người dân. Để mọi người trong xã hội có được tự do một cách bình đẳng, nó phải là sự tự do không tuyệt đối, được định nghĩa rõ ràng trong các văn bản pháp luật, để mọi thành viên có sự kết ước cũng như nghĩa vụ với nhau (kết ước xã hội).

 

Nhận ra các hạn chế của nền chuyên chính đương thời (giai cấp thống trị, từ vua chúa đến quan quyền), Locke, một trong những triết gia quan trọng và ảnh hưởng nhất cho sự tiến bộ của nhân loại về triết học chính trị, lý luận rằng “Con người... một cách tự nhiên, đều tự do, bình đẳng và độc lập, không ai có thể bị tách rời khỏi tài sản/sở hữu của mình, và bị bắt buộc phải tuân theo quyền lực chính trị của kẻ khác mà không được sự chấp thuận của chính mình.” Một số ý niệm chính trong Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ do Thomas Jefferson biên soạn được trích từ triết lý của Locke.

 

Vào thế kỷ 18, quyền con người chưa được định nghĩa rõ. Triết gia Burke nhận thấy sự cân bằng giữa tự do (trong trạng thái tự nhiên) và chuyên chính là cần thiết: “Bản chất của con người là phức tạp; các đối tượng của xã hội có mức độ phức tạp lớn nhất; và do đó, không có định hướng đơn giản hay chỉ đạo quyền lực nào có thể phù hợp với bản chất của con người hoặc với chất lượng của các vấn đề con người... Quyền của con người nằm đâu đó ở giữa, không có khả năng định nghĩa, nhưng không phải bất khả để nhận thức được. Quyền lực của những người trong chính phủ là lợi thế của họ; nhưng nó thường là sự cân bằng giữa các quan niệm khác nhau về cái thiện; thỉnh thoảng là sự thoả hiệp giữa cái thiện và cái ác; và thỉnh thoảng là giữa các cái ác với nhau.”

 

Tuy phần lớn các triết gia này chịu ảnh hưởng ít nhiều bởi Thiên Chúa giáo, các cuộc thánh chiến giữa các tôn giáo trước đó đã làm cho họ ngờ vực thêm về quyền lực, và ngờ vực quyền lực đi đôi với tôn giáo. Đối với họ, muốn có tự do, kể cả tự do tôn giáo, thì tôn giáo phải tách rời khỏi quyền lực chính trị.

 

Vì thế các câu hỏi quan trọng đối với các triết gia và các nhà lãnh đạo quốc gia trong thời đại Khai sáng là: 1) làm sao để có tự do?; 1) làm sao để duy trì bảo vệ tự do?; 3) làm sao để tự do tồn tại với thời gian, lâu dài, vĩnh hằng, dù ai lên nắm chính quyền cũng thế? Tìm được giải pháp cho các câu hỏi trên là giải quyết được vấn nạn chuyên quyền của con người, của lịch sử.

 

Quan niệm tản quyền

 

Cái mà ngày nay được gọi là dân chủ, chính là câu trả lời cho các câu hỏi trên.

 

Nhưng các triết gia tiên phong thời đó không đề cập nhiều đến ý niệm dân chủ, kể cả Locke. Đối với Locke, định luật tự nhiên là người dân phải hoàn toàn được tự do chấp thuận kẻ cai trị mình.

 

Nói cách khác, chuyên quyền không phải là định luật tự nhiên của con người, và người dân có chính nghĩa làm cuộc cách mạng thay thế chính quyền nếu chính quyền đó đi ngược lại nguyện vọng hay quyền lợi của người dân.

 

Để kẻ thống trị không chuyên quyền, không nắm quyền sinh sát và sử dụng quyền lực tuỳ tiện, thì quyền lực tổng thể không nên tập trung mà phải được tản quyền. Nghĩa là phải được phân chia, cân bằng và kiểm soát. Quyền lực phải nằm trong tay càng nhiều thành phần xã hội càng tốt, cho toàn dân càng tốt. Vấn đề tham gia trực tiếp vào các sinh hoạt chính trị cũng được cân nhắc, suy tính. Nhưng thể thức dân chủ tham gia trực tiếp (participatory democracy) chỉ có thể áp dụng cho một thành phố nhỏ. Vấn đề địa lý, di chuyển, thông tin, giáo dục hay các việc tổ chức vận hành cho nền dân chủ trực tiếp này cho một đất nước lớn hơn một thành phố là điều bất khả, thời đó và ngay cả bây giờ.

 

Vì các lý do thực tế của xã hội thời đó, nên những triết gia như Charles de Secondat, Baron de Montesquieu vào năm 1748 (và có dữ kiện còn đi xa hơn nữa, cho rằng Aristotle thời cổ Hy Lạp đã có những tư tưởng tương tự, nhưng Aristotle cũng chỉ ủng hộ dân chủ cho giới ưu tú), biện luận rằng chính quyền/nhà nước nên chia thành ba nhánh khác nhau để cân bằng và kiểm soát quyền lực của nhau, tránh quyền lực tập trung vào một nhóm nào đó.

 

Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên áp dụng thành công các tư tưởng chính trị cấp tiến này để thiết kế một nhà nước tam quyền phân lập. Các nhà lập quốc Hoa Kỳ và các thành viên của quốc hội thời đó, tuy không nhất thiết đồng quan điểm lúc ban đầu, nhưng sau đó đều chấp thuận thông qua đề nghị tu chính hiến pháp để bảo đảm quyền con người từ quyền lực của chính quyền. Tu chính án một đến mười của hiến pháp được chính thức thông qua ngày 15 tháng Mười Hai năm 1791, sau này được biết đến là Bộ luật về quyền (Bill of rights).

 

Vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ đã tác động sâu xa lên nền chính trị thế giới trước và sau Đệ nhị Thế chiến, nhất là trong vai trò lãnh đạo khối tự do trong thời chiến tranh lạnh đối với chủ nghĩa cộng sản, và nỗ lực truyền bá nhân quyền và dân chủ trên toàn thế giới qua các định chế mà Hoa Kỳ nỗ lực thành lập để bảo toàn nền Trật tự Thế giới Tự do (Liberal International Order). Hoa Kỳ đã đạt được những bước tiến đáng kể cho nhân loại về mặt này trước và sau thời chiến tranh lạnh.

 

Người Mỹ, dù ai lên làm tổng thống đi nữa, kể cả Donald Trump, thì hành pháp cũng sẽ bị giới hạn quyền lực trong phạm trù hiến pháp, và được cân bằng quyền lực bởi các ngành tư pháp, lập pháp, truyền thông cũng như sự đa dạng của các lĩnh vực tư và sự sinh động của xã hội dân sự, như chúng ta đã thấy rất rõ từ khi Trump lên làm tổng thống. Bài phát biểu của Trump tại Liên Hiệp Quốc mới đây cho thấy các chính sách ngoại giao của Trump rồi cũng không khác mấy so với các vị tiền nhiệm (3). Nghĩa là ai lên tổng thống rồi cũng sẽ đi vào khuôn khổ chung do sự tác động đa chiều và phức tạp của bao nhiêu tác nhân chính trị (political actors) tại quốc gia này.

 

Một sự tản quyền thích đáng trong hoạt động chính trị của bất cứ xã hội nào.

 

Tư duy nghi vấn

 

Thành công lớn nhất của Hoa Kỳ cho đến nay, tuy không hoàn hảo, chính là do ngay từ lúc ban đầu các nhà lập quốc đã xây dựng nền tảng quốc gia qua các triết lý chính trị đúng đắn, tích cực và cấp tiến. Trong đó, các nhà lập quốc và lãnh đạo quốc gia Hoa Kỳ có tư duy nghi vấn quyền lực một cách mạnh mẽ.

 

Họ tin tưởng mãnh liệt rằng những ai lên nắm chính quyền thì đến một lúc nào đó cũng phải xuống để người khác lên, không ai vĩnh viễn tồn tại. Càng kéo dài cai trị càng hư hỏng, không chỉ hết sáng kiến và năng lực mà còn tham quyền cố vị. Vì quyền lợi lâu dài cho đất nước, tất cả đều muốn xây dựng một thể chế có nền tảng vững chắc, ai lên ai xuống thì nền tảng cũng phải vững chắc để duy trì ổn định xã hội, để sự phát triển được tiếp tục không ngừng, nhất là khi đứng trước các thử thách lớn của thời đại. Tổng thống thì chỉ được tối đa hai nhiệm kỳ, ngoại trừ tổng thống Franklin Delano Roosevelt bốn nhiệm kỳ nhưng sau ông không còn ai nữa do tu chánh án số 22 (hiệu lực từ ngày 27 tháng 2 năm 1951).

 

Dần dần tất cả mọi người, từ công dân bình thường cho đến chính trị gia, chuyên gia trong mọi ngành của nhà nước, qua thông tin và giáo dục phổ thông, đều tin tưởng mãnh liệt rằng bất cứ chính quyền nào, dù lương thiện và tử tế mấy, cũng không thể có quá nhiều quyền quyết định các vấn đề hệ trọng của đất nước. Người dân, các xã hội dân sự, các cơ quan truyền thông v.v... phải có bổn phận luôn luôn cảnh giác, phòng ngờ và lên tiếng cảnh báo những sai lầm, những chính sách không đúng đắn, hoặc bất lợi, cho người dân, đất nước hay nhân loại. Tu chánh án hai trong Bộ luật về quyền nói trên cho phép người dân sở hữu súng để tự vệ và chống lại áp bức, nhất là từ chính quyền.

 

Theo học giả Graham Allison, sự khác biệt chính giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa là rằng người Mỹ coi chính phủ là một điều tồi tệ cần thiết; người Mỹ cũng tin rằng xu thế của nhà nước đối với bạo quyền và lạm quyền phải được lo ngại và hạn chế. Trong khi đó đối với người Trung Hoa, chính phủ là một điều cần thiết, là trụ cột cơ bản đảm bảo trật tự và ngăn ngừa sự hỗn loạn... Văn hoá Trung Hoa không đề cao chủ nghĩa cá nhân kiểu Mỹ, trong đó đánh giá xã hội bằng cách bảo vệ quyền lợi của mình và nâng cao quyền tự do cá nhân. Thực tế, thuật ngữ "chủ nghĩa cá nhân" của Trung Hoa - gerenzhuyi - cho thấy chủ nghĩa cá nhân là một sự bận tâm ích kỷ với chính bản thân mình hơn cộng đồng của mình. Từ ngữ tương đương của Trung Hoa với "cho tôi tự do hay cho tôi cái chết" sẽ là "cho tôi một cộng đồng hài hòa hoặc cho tôi cái chết." Đối với Trung Hoa, trật tự là giá trị cao nhất, và kết quả hoà hợp từ một hệ thống phân cấp, trong đó những người tham gia cần tuân thủ điều kiện đầu tiên của Khổng Tử: Biết vị trí của mình trong xã hội (4).

 

Có lẽ vì tư duy này (không phải tất cả, chủ yếu là giới lãnh đạo) nên nước Trung Hoa vẫn chưa có dân chủ và nhân quyền không hề được tôn trọng. Mao Trạch Đông là thủ phạm của mấy chục triệu người chết trong các chính sách vô cùng sai lầm và tai hại của ông nhưng rồi không ai chịu trách nhiệm về những cái chết oan khiên đó. Đặng Tiểu Bình và bao nhiêu lãnh tụ của Trung Hoa là thủ phạm của biến cố Thiên An Môn, của bao nhiêu sự vi phạm nhân quyền trầm trọng trong mấy chục năm qua. Họ cũng chưa chịu trách nhiệm chính thức với người dân về các tội ác lớn lao này. Quyền sinh sát vẫn nằm trong tay một thiểu số nắm mọi quyền lực, trong thời điểm này là Tập Cận Bình.

 

Quyền lực có thể nói có một sức quyến rũ ma lực. Những nơi mà thiếu các cơ quan và ban ngành kiểm soát và cân bằng quyền lực một cách hiệu quả, thiếu các cơ quan truyền thông độc lập, thiếu năng lực của các lãnh vực tư và các tổ chức xã hội dân sự mạnh mẽ, thì quyền lực rồi cũng nằm trong tay một thiểu số, phe nhóm, bè phái để rồi họ tự tung tự tác và kéo dài sự cai trị và tội ác của họ lên trên chính người dân của họ. Những xã hội như thế sẽ tiếp tục chìm đắm trong bóng tối của các ác và sợ hãi, và sẽ mất rất nhiều công sức và thời gian để phục hồi niềm tin và tìm con đường tiến lên cho con người và đất nước của mình.

 

Điều rõ ràng là bất cứ ai cũng có thể là nạn nhân của các bạo chúa, các nhà độc tài hay các chế độ chuyên quyền. Ngay cả thân nhân trong gia đình cũng không tránh khỏi các vụ đấu đá, tranh chấp quyền lực với nhau. Trong lịch sử Trung Hoa và thế giới cũng không thiếu bao nhiêu trường hợp như thế. Thí dụ gần nhất là Kim Jong Un đã ra lệnh giết hại người anh của mình. Con người không phải ai cũng xấu, và lịch sử luôn có bao trường hợp của các nhà lãnh tụ anh minh, luôn thương yêu và luôn vì quyền lợi của đất nước dân tộc. Nhưng đây cũng chỉ là trường hợp thiểu số và ngoại lệ. Đại đa số khi nắm quyền lực trong tay thì không muốn buông thả, trừ phi bị bắt buộc do chính cơ chế đó.

 

Trong thế kỷ 19 Lord Acton nhận định rằng “quyền lực làm hư hỏng, quyền lực tuyệt đối làm hư hỏng tuyệt đối”. Đúng là một lời tiên tri, vì các chế độ độc tài, phát xít và cộng sản trong thế kỷ 20 đã làm hư hỏng tuyệt đối, do các chế độ cai trị này đã nắm mọi quyền sinh sát trong tay và đã sẵn sàng sử dụng nó cho các mục tiêu hoàn toàn ảo tưởng của họ. Chiến tranh thế giới và các cuộc tàn sát, diệt chủng và tội ác đối với nhân loại, sẽ vĩnh viễn là các vết lịch sử.

 

Đại đa số người dân trưởng thành trong thể chế chính trị và văn hoá cấp tiến thường có suy nghĩ phê phán và thái độ ngờ vực đối với mọi vấn đề, nhất là quyền lực. Nó nằm trong văn hoá, suy nghĩ, thái độ sống của họ. Họ không dễ dàng tin cho đến khi có đủ bằng chứng để thuyết phục họ. Họ tôn thờ sự thật và bỏ công đi tìm cho đến khi nào thoả mãn đã đạt được hay đã đến gần được sự thật. Nhờ thế mà họ nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu và thực hành cái gì cũng tới nơi tới chốn. Nhờ thế mà họ đạt đến đỉnh cao của khoa học, văn học, xã hội học hay mọi lãnh vực học thuật đúng theo ý nghĩa của nó. Một quốc gia càng có tỷ lệ dân chúng có óc phê phán như thế thì càng có khả năng chọn người thích hợp và có trách nhiệm vào các cơ quan hành pháp và lập pháp, kiểm soát quyền lực của các ngành này, cũng như góp phần xây dựng và phát triển ngành truyền thông và các tổ chức xã hội dân sự hiệu quả.

 

Quan niệm dân chủ

 

Tự do, hạnh phúc, sự sống trong nhân phẩm v.v... là mục tiêu tối hậu của con người, của mọi thời đại.

 

Dân chủ, thật ra, không phải là cứu cánh. Dân chủ chỉ là phương tiện và là tiến trình.

 

Cho đến nay nó đã chứng minh là phương tiện, là thiết chế, bảo đảm tự do một cách hữu hiệu nhất. Nó cũng là tiến trình không ngừng nghỉ, bởi chính nó không hoàn hảo nhưng có khả năng tự điều chỉnh. Nếu có tư tưởng đúng đắn để thiết kế nền dân chủ ngay từ lúc ban đầu, các thế hệ về sau sẽ luôn có thể điều chỉnh nó cho thích hợp và hiệu quả hơn cho thời đại của mình.

 

Winston Churchill từng tuyên bố vào ngày 11 tháng 11 năm 1947: “Nhiều hình thức chính phủ đã được thử nghiệm, và sẽ được thử nghiệm trong thế giới tội lỗi và thù nghịch này. Không ai giả vờ rằng dân chủ là hoàn hảo hay tuyệt khôn ngoan. Thực tế người ta đã nói rằng dân chủ là hình thức chính phủ tồi tệ nhất ngoại trừ tất cả những hình thức khác đã từng được thử nghiệm theo thời gian...”

 

Dân chủ cũng không phải là một hệ thống hiệu quả nhất bởi vì dân chủ là cần phải cân nhắc, thảo luận, tranh luận rất triệt để và cuồng nhiệt để sau cùng thoả hiệp với nhau vì quyền lợi chung. Một người tôi quen biết, cựu thẩm phán tại Hoa Kỳ, từng chia sẻ rằng quốc hội Hoa Kỳ làm việc như con rùa. Dù thế, thà chậm mà chắc. Trong quá trình không hoàn hảo đó, người dân trong mọi khuynh hướng xã hội đều có thể đóng góp ý kiến, tham gia, biểu tình, phản đối hay vận động tối đa để tạo áp lực lên hành pháp và lập pháp để họ lắng nghe ý kiến của mình. Các quyền tự do thì luôn được bảo đảm và tôn trọng.

 

Cố Thủ tướng Úc Malcolm Fraser, một trong những khuôn mặt lãnh tụ quốc gia lớn nhất của Úc và có tầm quốc tế, đã nhìn nhận rằng những ai đi tìm một hệ thống chính quyền hoàn hảo thì khó thể nào tìm thấy nó. Những ai đi tìm một số nguyên tắc chung để có thể áp dụng cho mọi hoàn cảnh thì sẽ bị lạc đường. Theo ông một chính quyền tốt thì phải dân chủ và nhất thiết phải thực dụng. Mỗi thời đại có những vấn đề và thử thách khác nhau, cho nên các quyết định cần phải được hướng dẫn bởi triết lý nhưng điểm mấu chốt là phải dựa vào bằng chứng thực nghiệm. Trong khi đó các lý thuyết chính trị của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội đã hoàn toàn thất bại và các chế độ chuyên quyền cũng vậy bởi vì họ thuần tuý sử dụng một số nguyên tắc (như các nghị định/quyết) và tìm cách áp dụng cho mọi trường hợp. Làm như thế thì nó phản lý luận, phản ý thức thông thường của con người (5).

 

Chính phủ cấp liên bang (và cả các tiểu bang/lãnh thổ và địa phương), trong một chế độ dân chủ pháp trị đích thực, như Úc, không phải chỉ chịu trách nhiệm trước hành pháp (quốc hội), tư pháp (toà án), mà hàng ngày các lãnh đạo quốc gia từ thủ tướng đến các bộ trưởng phải trả lời các thắc mắc của truyền thông và công chúng. Bất cứ một chính sách nào cũng bị vặn hỏi và được tranh cãi sâu sắc. Chính phủ cũng được giám sát bởi chính các cơ quan, mặc dầu thuộc nhà nước, nhưng hoạt động hoàn toàn độc lập, như Uỷ Hội Nhân quyền Úc (the Australian Human Rights Commission) để báo cáo mọi vi phạm nhân quyền trong phạm trù trách nhiệm pháp lý của nước Úc. Ngoài ra, mọi cơ quan mọi địa hạt đều có các thanh tra viên liên bang (Commonwealth Ombudsman) giám sát và điều tra các hành động và quyết định của các cơ quan chính phủ có hợp pháp và hợp lệ không. Các đảng phái chính trị lớn của Úc cũng có nhiều cách thức chế tài hay hạ bệ một lãnh đạo nào đó nếu không được đa số công chúng ủng hộ hoặc nếu có hành vi bất xứng. Nhưng trên hết, để được công chúng tin tưởng mình và tiếp tục ủng hộ mình, chính phủ và mọi cơ quan công quyền đều phải chứng minh khả năng, hiệu quả và tinh thần trách nhiệm của mình vào mỗi thời hạn nhất định trước quốc hội. Vì thế tinh thần làm việc liêm chính, không tham nhũng, luôn vì quyền lợi tối thượng của đất nước vân vân, phải được chứng minh.

 

Nên nhớ nền dân chủ Úc không hề hoàn chỉnh. Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, phụ nữ mới bắt đầu được quyền bầu cử và sau đó không lâu được quyền ứng cử sinh hoạt chính trị. Người thổ dân Úc hoàn toàn không được quyền gì cả và bị đối xử phân biệt tồi tệ. Chính sách Người Úc Trắng đã phân biệt đối xử một thời gian dài nhưng được xoá bỏ hoàn toàn vào đầu thập niên 1970. Cho đến tận ngày hôm nay, người phụ nữ trong vai trò lãnh đạo trong mọi ngành xã hội vẫn chưa được trả lương như người khác phái mình. Các cập hôn nhân đồng tính LGBTI vẫn chưa được chính thức công nhận. Nói chung một số giá trị nhân quyền phổ quát vẫn chưa được hoàn toàn bảo đảm hay công nhận tại Úc.

 

Các bài học cho Việt Nam

 

Các ý niệm về quyền lực và quyền con người như đã nói trên đã được phổ biến rộng rãi trong các xã hội tân tiến Âu, Mỹ, Úc v.v..., hướng dẫn giới lãnh đạo chính trị và xã hội tại các nơi này cấu tạo nên nền móng chính trị dân chủ bền vững để bảo đảm tự do cho mọi cá nhân trong xã hội đó.

 

Trong khi đó người dân thuộc các quốc gia chậm tiến, nhất là các quốc gia đã chịu ách thống trị của các chế độ thực dân trong nhiều thập niên của thế kỷ 19 và 20, và rồi chế độ cộng sản toàn trị trên nhiều thập niên qua, điển hình là Việt Nam, đã không có cơ hội tiếp cận được nhiều các tư tưởng chính trị quan trọng này.

 

Trong nhiều thập niên của thế kỷ 20, một phần dân tộc đã tin vào chủ nghĩa cộng sản như là cứu cánh không chỉ cho nền độc lập nước nhà mà còn là sự tự do, ấm no và hạnh phúc của mọi người dân. Cái bánh vẽ này đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến Việt Nam cũng như từ khi cuộc chiến chấm dứt mãi cho đến gần đây. Một thiểu số đảng viên ĐCSVN đã nhìn ra được vấn đề, và đã can đảm gióng lên tiếng nói khi thấy đảng đi ngược lại nguyện vọng của đất nước dân tộc. Nhưng họ chỉ là một thiểu số lẻ loi và đã bị nghiền nát ngay lập tức. Đại đa số còn lại “ngậm bồ hòn khen ngọt” và bám theo đảng vì quyền lực và quyền lợi, mặc kệ tương lai của đất nước đi về đâu.

 

Quyền lực vẫn tiếp tục nằm trong tay một thiểu số nhỏ, nắm mọi quyền sinh sát, sử dụng đủ mọi thủ đoạn, bất chấp mọi tiếng kêu than oán.

 

Ngoài 20 năm ngắn ngủi của nền Việt Nam Cộng Hoà, tự do vẫn chỉ là ước mơ của toàn dân tộc mà không biết đến bao giờ mới trở thành sự thật.

 

Hai triết gia Mill và Voltaire của thời đại Khai Sáng đã lý luận sắc bén về quyền được sống, được nói và được miễn áp bức. Mill viết: “Mục tiêu duy nhất để quyền lực có thể được sử dụng một cách chính đáng nhất đối với bất cứ một thành viên nào trong một cộng đồng văn minh, ngược lại với ý muốn của người đó, là để ngăn chặn sự tổn hại đối với người khác”. Luật hình sự và luật chống khủng bố, chẳng hạn, tại các quốc gia văn minh ngày nay thể hiện rõ tinh thần này.

 

Voltaire tuyên bố câu nổi tiếng rằng dù không chấp nhận những gì người khác nói, ông sẽ bảo vệ đến chết quyền được nói của người đó. Voltaire hiểu rõ nếu không bảo vệ quyền tự do ngôn luận cho người khác thì quyền tự do ngôn luận của ông cũng sẽ bị đe doạ. Tự do ngôn luận là một trong các quyền căn bản nhất để mọi người trong mọi xã hội có thể đi tìm sự thật (tương đối), đề cao các giá trị văn minh và nhân bản, và phơi bày mọi bất công dối trá. Không có tự do ngôn luận thì chế độ cầm quyền quyết định chế độ sự thật. Cho nên nếu không cùng nhau bảo vệ tự do ngôn luận thì độc đoán độc quyền và độc tài sẽ ngự trị, và rồi mọi tiếng nói khác biệt hay đối lập sẽ dần dần bị triệt tiêu. Cái ác từ đó sẽ lên ngôi.

 

Tự do (cái khát vọng muôn đời của con người, để được sống trong nhân phẩm, để được mưu cầu hạnh phúc, để không bị tuỳ tiện xét xử hay ban cho) kể từ đó trở thành thang giá trị quan yếu của hầu hết các lãnh đạo quốc gia theo xu hướng dân chủ cấp tiến (liberal democracy) và cả dân chủ xã hội (social democracy của Bắc Âu, không phải chủ nghĩa xã hội kiểu giai đoạn chuyển tiếp của chủ nghĩa cộng sản trong tư tưởng của Karl Marx).

 

Để Việt Nam có được tự do dân chủ thật sự trong tương lai, và để tránh tối đa sự lạm quyền, tiếm quyền, và nhất là chuyên quyền, một trong những điều căn bản mà người dân Việt Nam phải cố bắt chước học hỏi, tốt nhất là ngay từ bây giờ, là tư duy nghi ngờ quyền lực. Điều cần ghi nhớ trong đầu là mọi chính quyền, tốt lẫn xấu, đều muốn tối đa quyền lực của mình để thực hiện các mục tiêu chính trị đề ra. Nếu không cân bằng quyền lực, nếu không kiểm soát được họ nữa, thì dù bắt đầu bằng tất cả thiện chí và thành tâm, quyền tự do của mỗi người sẽ dần dần bị lấn át một ngày nào đó không hay.

 

Vì lẽ đó nên trong hiện nay và tương lai, khi một người tham gia vào một đảng phái hay tổ chức chính trị nào đó để vận động tranh đấu cho dân chủ nhân quyền, người đó cũng phải luôn đề phòng bất cứ cá nhân nào trong tổ chức mình nắm quá nhiều quyền hành trong tay, đặc biệt khi họ có thái độ hay cung cách hành xử độc đoán, độc tài. Ngay cả khi Việt Nam có được dân chủ thật sự, mà tổ chức hay đảng chính trị mình tham gia bắt đầu có những hành vi xiết chặt quyền tự do ngôn luận hay báo chí, chẳng hạn, thì mình phải có trách nhiệm lên tiếng. Mỗi người phải có thái độ ngờ vực với các xu hướng chuyên quyền, độc đoán. Tư duy và hành xử như thế mới thật sự đặt quyền lợi của đất nước dân tộc lên trên đảng phái, tổ chức mình. Nó sẽ giúp cho đất nước và xã hội vượt qua được những lãnh tụ có tham vọng thâu tóm quyền hành trong tay để trở thành độc tài. Nếu không quan tâm để ý và không nhìn ra kịp thì các quyền tự do này một ngày nào đó cũng sẽ không còn nữa. Điển hình là trường hợp của Nga và Thổ Nhỉ Kỳ hiện nay.

 

Có thể nói đa số người Việt Nam không phân biệt rõ ràng quyền lợi của đất nước dân tộc với quyền lợi của đảng phái hay giai cấp cầm quyền. Trong khi đó giai cấp thống trị luôn tìm cách lấp liếm nhập nhằng, nhập cả hai thành một, nhưng không phải vậy. Không phân biệt rõ ràng hoặc không dám lên tiếng thì cái đảng mà cả đời mình hy sinh cho lý tưởng lại đứng trên đầu trên cổ mình và dân tộc mình.

 

Đối với người Việt Nam, chủ nghĩa sùng bái cá nhân và tôn thờ lãnh tụ đã ăn sâu vào tâm khảm của một dân tộc cứ mãi lầm than, vì triền miên chiến tranh, vì văn hóa chính trị. Sự tôn thờ lãnh tụ, vốn đã trầm trọng nay còn tệ hại hơn do hệ thống tuyên truyền. Nó là cản trở lớn để tư duy con người thoát khỏi khuôn khổ đã bị đóng khung bấy lâu nay. Não trạng như thế cần phải được thay đổi sâu sắc. Cần một cuộc cách mạng tư duy.

 

Để bảo đảm cho sự phát triển liên tục, miên viễn, ổn định và hài hoà, điều kiện quan yếu là phải có tự do tối đa cho mọi người. Tổng trưởng Tư pháp của Úc hiện nay Thượng Nghị sĩ George Brandis từng biện luận rằng tự do, tối đa tự do, là giá trị quan yếu, trên tất cả mọi giá trị. Ông viết: “Trong hàng trăm năm, con người đã chiến đấu và chết vì các giá trị tự do/cấp tiến. Ngày nay, những người cấp tiến ở Úc may mắn sống trong một xã hội tương đối hài hoà với niềm tin của họ. Sự nguy hiểm của lòng nhân ái là tính tự mãn: tất cả đều dễ dàng tự mãn với những thành tựu kiên cố mà chủ nghĩa cấp tiến đã đạt được; tất cả đều quá dễ quên những gì làm cho chúng ta thành những người cấp tiến" (6). Cựu thủ tướng thuộc Đảng Cấp tiến của Úc Robert Menzies và đương kiêm thủ tướng Malcolm Turnball cũng tin tưởng tuyệt đối vào tự do. Menzies nói “Chúng tôi đại diện cho tự do” (We stood for freedom). Tự do là mục đích của phong trào chính trị của đảng, và Turnball cho rằng chính nó là “sợi chỉ vàng của lịch sử chúng ta”, nối liền quá khứ với hiện tại và tương lai.

 

Hiện giờ, khi người dân Việt Nam đang bị tước đoạt mọi quyền tự do, sự trang bị cho tư duy nghi ngờ mọi quyền lực của chế độ hiện nay cũng là điều kiện cần thiết, là bước quan trọng đầu tiên, để đem lại thay đổi cho Việt Nam.

 

Không có tư duy này thì mọi nỗ lực xây dựng dân chủ và phát huy nhân quyền sẽ không có nền tảng vững chắc để phát triển ổn định và bền vững về sau, ngay cả khi đã đạt được một hình thức dân chủ nào đó. Không có tư duy này thì độc đoán chuyên quyền sẽ ngự trị mãi trên quê hương Việt Nam.

 

Mục đích chính yếu để xây dựng thể chế chính trị dân chủ trong nhiều thế kỷ qua là để bảo đảm quyền tự do cho mỗi người được bình đẳng trước pháp luật. Để phát huy tinh thần dân chủ ngày một tốt hơn, mỗi cá nhân trong xã hội phải trao dồi suy nghĩ phê phán và ghi vào tim óc tính ngờ vực quyền lực. Nếu quên thì sẽ mất. Mà đã mất rồi thì rất khó lấy lại được. Sẽ tốn bao nhiêu mồ hôi, máu và nước mắt. Như bao nhiêu bài học lịch sử đã chứng minh.

 

Điều sau cùng tôi xin được chia sẻ, sau khi trình bày các quan niệm nền tảng trên, là tư tưởng chính trị. Tư tưởng chỉ đạo hành động. Tư tưởng nghèo nàn thì hướng đi sẽ nghèo nàn. Muốn làm việc lớn thì phải có tư tưởng lớn. Muốn làm việc đúng đắn thì phải có suy nghĩ đúng đắn. Cơ hội đất nước chuyển mình vươn lên tuỳ thuộc vào suy nghĩ của cái đa số người dân trong xã hội đó. Không có gì là khó cả. Não trạng của một người, dù già hay trẻ, đều có thể thay đổi, nếu chịu khó trao dồi, học hỏi. Quan trọng nhất là phải nhận thức được rằng mình cần trao dồi, học hỏi, thay đổi tư duy. Ngay cả những người Việt ở hải ngoại tưởng sống trong các thể chế dân chủ tiến bộ hàng đầu là đã hiểu và hành xử dân chủ, nhưng không phải vậy. Tất cả các ý niệm hay tư tưởng chính trị này mang tính triết lý và phức tạp. Nhiều người tưởng mình đã hiểu thật ra chỉ nắm cái vỏ, không phải cái ruột. Biết hình thức, không phải nội dung.

 

Riêng về quyền lực thôi thì đã bao nhiêu sách chuyên môn xuất bản, từ lý thuyết đến  thực hành. Steven Lukes viết cuốn sách gây nhiều tranh cãi “Quyền lực: Một cái nhìn triệt để” (Power: A Radical View) (7). Theo Lukes thì quyền lực quyết định (decision making power) mang tính công chúng nhất, nghĩa là dễ nhận diện nhất. Quyền lực không quyết định (non-decision making power) thì khó thấy hơn, điển hình là ảnh hưởng của các đảng phái chính trị đằng sau các lãnh đạo quốc gia, chẳng hạn như vấn đề nào được ưu tiên thảo luận trong nghị trình. Quyền lực theo chiều thứ ba là khả năng ngăn chặn những mối bất bình bằng cách định hình nhận thức, ý thức và sở thích mà qua đó bảo đảm sự chấp nhận vai trò nhất định trong trật tự hiện có.

 

Chẳng hạn trong xã hội Việt Nam dưới chế độ hiện thời, ngoài các quyết định của nhà nước hay đảng mà người dân thấy được, bao nhiêu quyết định khác – công khai hay kín đáo – người dân lại không rõ ai đang thật sự quyết định. Và có rất nhiều vấn đề hệ trọng của đất nước thì hoàn toàn không được nhà nước quan tâm đến. Người dân cũng không rõ vì sao như vậy, và không biết cá nhân, lực xã hội/chính trị nào hay định chế nào đang khống chế các vấn đề này, mặc dầu tất cả đều quy về một mối: Đảng Cộng Sản Việt Nam. Người dân hoàn toàn không nắm rõ các mối nguy và hiểm hoạ của cuộc sống hôm nay. Họ không có tiếng nói. Họ không dám lên tiếng. Tất cả là vì các quyền tự do ngôn luận báo chí v.v... hoàn toàn không được công nhận. Thay vào đó là sự áp đặt chế độ sự thật do sự khống chế tuyệt đối của chế độ cầm quyền. Vì như thế nên chế độ cầm quyền đã ngăn chặn được phần lớn mối bất bình của người dân để tiếp tục chấp nhận vai trò của đảng/nhà nước trong trật tự hiện có.

 

Tóm lại, các vấn đề chính trị và xã hội, hay nói chung là vấn đề con người, rất phức tạp. Nó đòi hỏi khả năng trí tuệ và tính chuyên môn cao để có thể phân tích giải nghĩa và thuyết phục đa số người dân.

 

Nếu người Việt Nam muốn bắt kịp nước Nhật, hay Úc, hay các nước tiên tiến hiện nay trong vài thế hệ nữa, thì chúng ta vẫn có thể làm được nếu có đúng triết lý để chỉ đạo hành động. Tất nhiên sự thành công hay không là do sự quyết tâm, kiên trì và chương trình hành động thích đáng và khoa học, nhưng trên hết vẫn là do tư duy đúng đắn của mình. Một tư duy đúng đắn là biết tôn trọng sự thật và nỗ lực mưu cầu chân thiện mỹ. Muốn đạt được điều này thì điều kiện quan yếu là tự do.

 

Nếu không bắt đầu thay đổi tư duy ngay bây giờ thì khi nào chúng ta mới khai phóng tư duy lệ thuộc để bắt kịp các quốc gia bạn?

 

 

Phạm Phú Khải

Úc châu, 14/10/2017

 

 

 

Tài liệu tham khảo:

 

(1) Barry Hindess, “Discourses of power: from Hobbes to Foucault”, Cambridge, Massachusetts, trang 1 đến 22.

 

(2) Michael T. Klare, “Hard Power, Soft Power, and Energy Power” The New Foreign Policy Tool, Foreign Affairs, 03/03/2015. Trong cuộc cạnh tranh để giành ảnh hưởng và ngôi vị siêu cường quốc, Klare cho rằng quyền lực năng lượng không chỉ nói lên tính cương quyết kiểu quân sự mà còn cung cấp mức độ đòn bẫy không có trong ngoại giao.

 

(3) Phát biểu của tổng thống Mỹ tại Liên Hiệp Quốc “Donald Trump's speech to UN General Assembly: The full transcript”, http://www.abc.net.au/news/2017-09-20/donald-trump-speech-to-un-full-transcript/8962616, 20/09/2017.

 

(4) Graham Allison,China vs. America” - Managing the Next Clash of Civilizations, Foreign Affairs, September/October 2017 issue.

 

(5) Malcolm Fraser, “Common Ground”, Viking, 2002, trang 1 đến 10.

 

(6) George Brandis, “The Liberal Party And The Liberal Cause”, the Alfred Deakin Lecture at the University of Melbourne, 22/10/2009.

 

(7) Steven Lukes, “Power: A Radical View”, (ấn bản đầu năm 1974, tái bản năm 2005) Basingstoke: Palgrave Macmillan, (2005).

 

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 13-10-17