Phong trào Phật giáo miền Trung – Huế
từ Chấn hưng đến Dấn thân


Chu Sơn

 


 

Phần Hai

Phong trào Phật giáo Miền Trung - Huế

thời kỳ dấn thân (1954-1966)

 

*****

Chương I - Chương II  - Chương III - Chương IV

Chương V - Chương VI - Chương VII

 

 

 

Chương VIII

Cuộc dấn thân lần thứ năm

Đấu tranh chống quân phiệt và đường lối chiến tranh
của Mỹ - Thiệu - Kỳ, kêu đòi chế độ dân chủ,
hòa bình dân tộc, độc lập quốc gia và cách mạng xã hội

            

 

Ngày 14. 6.1964,  Hội đồng Quân lực quyết định thành lập:

         - Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia do trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch (tổng thống hay quốc trưởng). 

         - Ủy ban Hành pháp Trung ương do thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm chủ tịch (thủ tướng).

 

Ngày 16.6.1965, Tòa án Mặt trận Nha Trang tuyên phạt từ 2 đến 16 năm tù cho những người là thành viên của Hội đồng Nhân dân Cứu quốc Bình Định và Phan Thiết vì có hành vi bạo động trong phong trào chống Hiến chương Vũng Tàu và bài trừ Cần Lao bị bắt từ tháng 9.1964.

Ngày 19. 6.1965, một Ước pháp mới được ra đời gồm 7 thiên, 25 điều  là giềng mối để thiết lập Đại hội đồng Quân lực VNCH, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, Hội đồng Kinh tế và Xã hội, Thượng Hội đồng Thẩm phán. Các tướng Thiệu, Kỳ, Chiểu được xác nhận là thành viên của Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, còn Hội đồng Quốc gia Lập pháp cũ giải tán. Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ ra đời với nhiều nhân vật dân sự tên tuổi như bác sĩ Trần Văn Đỗ (tổng ủy viên ngoại giao), luật sư Lữ Văn Vi (tổng ủy viên tư pháp), giáo sư Trần Ngọc Ninh (tổng ủy viên văn hóa giáo dục), thẩm phán Trần Minh Tiết (bộ  trưởng nội vụ).( Theo Đỗ Mậu, sđd trg 549).

Phật giáo miền Trung đứng trước một cục diện mới: Cuộc chiến tranh của Mỹ và những cơ cấu quyền lực nội địa mà họ (Phật giáo) hy vọng có thể chuyển hóa theo đường lối của mình: Trong Hội đồng Quân lực, Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Chánh Thi là hai tướng mà họ cho là mạnh nhất, lại có  “ khuynh hướng thân Phật giáo ”, chính phủ Nguyễn Cao Kỳ tuy được gọi là nội các chiến tranh, nhưng các thành viên lại là “những nhân vật dân sự tên tuổi.” Chính quyền dân sự và chế độ dân chủ sẽ hình thành thông qua tuyển cử tự do là sức mạnh đoàn kết dân tộc theo “ý thức hệ Quốc gia và   trong tinh thần đạo Phật” sẽ có tiếng nói mạnh mẽ và chính danh đủ sức thuyết phục Mỹ và miền Bắc chọn lựa giải pháp hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho Mỹ giải kết và rút lui trong danh dự. Trong chừng mực nào đó, đến thời điểm này (1965), nhà sư Thích Trí Quang và bộ tham mưu của ông còn tin vào thiện chí, lý tưởng tự do dân chủ của Mỹ, tình tự dân tộc cùng ý thức trách nhiệm công dân của các nhà lãnh đạo đảng Cộng Sản.

Do lập trường và sách lược chính trị như vậy nên suốt năm 1965, đến 2 tháng đầu năm 1966, phong trào Phật giáo miền Trung – Huế  chỉ lo củng cố và phát triển lực lượng, nhưng kìm hãm các cuộc đấu tranh với hy vọng Mỹ và hai Tương Kỳ – Thi ủng hộ đường lối và sách lược của mình.

Mỹ đỗ quân từ đầu tháng 3, đến cuối năm 1965 quân số của Mỹ có mặt tại miền Nam tăng lên khoảng từ 150 đến 200 ngàn. Không khí chiến tranh bao trùm cả hai miền Nam – Bắc. Máy bay Mỹ và máy bay Việt Nam Cộng Hòa oanh tạc ngày đêm các tỉnh miền Bắc. Tại miền Nam chiến sự ngày một khốc liệt. Sự có mặt của quân Mỹ ngày càng gia tăng với vũ khí hiện đại và các phương tiện chiến tranh khác dư thừa đã gây khó khăn bước đầu cho quân Mặt trận Giải phóng. Công cuộc xây dựng bến cảng, sân bay, căn cứ, doanh trại, kho tàng, cầu đường phục vụ chiến tranh của quân đội Mỹ hoạt động sầm sập ngày đêm. Tiếng gầm rú của máy bay và đạn pháo xé nát bầu trời. Bụi cát tung bay mịt  mù mặt đất. Bên ngoài các thành phố, cạnh các doanh trại quân Mỹ, mọc lên rất nhiều bãi rác, trẻ em lang thang lấm lem, gái đứng đường diêm dúa má phấn môi son, và rất nhiều quán bar. Trong nhiều thành phố, người Việt Nam xây khách sạn và nhà cho thuê, đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng cuả ngoại kiều Phi, Mỹ, Đại Hàn… Đồng đô la và hàng hóa Mỹ tràn ngập thị trường. Đạo lý suy đồi, giá trị xã hội đảo ngược. Trong dân gian truyền tụng câu châm ngôn: “nhất đĩ, nhì cha, tam sư, tứ tướng”.

Ngày 20.7.1965, tại Sài Gòn, tại Bến Hải – Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi tổ chức họp mặt, hội thảo, hô hào Bắc tiến. Sinh viên các trường đại học được mời tham dự. Sinh viên Công giáo, đảng phái và thân chính nồng nhiệt hưởng ứng. Sinh viên phật tử và sinh viên cộng sản, thân cộng hay tả khuynh thì bức xúc, né tránh, dửng dưng, lạnh nhạt. Trong khuôn  viên các trường Đại học Huế diễn ra bầu không khí sôi nổi các hoạt động hội thảo, tranh luận, phát thanh và báo chí. Ở đây tiếng nói ủng hộ chiến tranh, chống Cộng nhỏ yếu và thiểu số. Lập trường chống chiến tranh, tư tưởng hòa bình và quyền dân tộc tự quyết được phổ biến công khai, mạnh mẽ trong các diễn đàn này. Bởi tương quan lực lượng giữa các khuynh hướng chính trị trong sinh viên (tỷ lệ và lãnh đạo) thuộc về các sinh viên phật tử, việt cộng hay thân cộng (núp dưới chiêu bài Phật giáo hay các nhóm biến tướng). Tại Tổng hội Sinh viên, chủ tịch là Trần Xuân Kiêm (phật tử), tổng thư ký là Hoàng Phủ Ngọc Tường (Việt Cộng). Tại Hội đồng Sinh viên Liên khoa, chủ tịch là Nguyễn Hữu Giao (phật tử), phó chủ tịch là Bảo Cự (Việt Cộng). Vì ở trong tư thế bất hợp pháp và yếu thế hơn nên các các sinh viên việt cộng thường phải nép dưới ngọn cờ Phật giáo. Do vậy tương quan lực lượng trong các tổ chức sinh viên vào thời điểm này lại nghiêng về phía phật tử. Các sinh viên phật tử nhận mệnh lệnh từ thầy Trí Quang và chùa Từ Đàm. Do đó hành động chính trị của phong trào đấu tranh năm 1965 vẫn được quyết định từ phía Phật giáo. Chống Thiệu – Kỳ, chống chiến tranh, kêu đòi dân chủ, hòa bình và quyền tự quyết dân tộc, nhưng chống và kêu cầm chừng trong phạm vi đại học, chưa được phát động thành phong trào quần chúng. Một khi các tổ chức như Gia đình Phật tử, Sinh viên Phật tử, Học sinh Phật tử, Tiểu thương Phật tử, Giáo chức Phật tử, Công chức Phật tử, Công nhân Lao động Phật tử, Cảnh sát Phật tử, Quân nhân Phật tử…chưa được lệnh các Thầy thì phong trào quần chúng đấu tranh không nổ ra được, cho dù người của Mặt Trận trong các Ban chấp hành Tổng hội,  Hội đồng Sinh viên Liên khoa, hay trong các tổ chức công khai hợp pháp và các tổ chức biến tướng có “nóng sốt” đến đâu. Trước tình hình đó nhà sư Thích Trí Quang và các lãnh tụ Phật giáo bị người của Mặt Trận trong Phong trào Đô thị qui kết là “thỏa hiệp”, thậm chí còn nhiều từ ngữ nặng nề hơn.

Những dòng tự sự sau đây của Hoàng Văn Giàu, người tự khẳng định vai trò, vị trí “quan trọng” của mình trong phong trào Phật giáo, giúp chúng ta hiểu biết thêm vì sao năm 1965 phong trào đấu tranh của nhân dân miền Trung không dậy sóng, và tại sao đến tháng 3 năm 1966, sau khi cuộc khủng hoảng Thi –  Thiệu Kỳ bùng nổ, Phật giáo mới tiếp nối làm nên cái mà dân gian quen gọi là Biến Động Miền Trung .

“Vì lo ngại Thiệu trở thành thế dựa cho tàn dư của chế độ cũ khai thác chiêu bài chủ chiến đấu thầu chống cộng để trồi lên lại nên một mặt chúng tôi tỏ cho Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Chánh Thi là chúng tôi không có ác cảm gì với họ và cũng chẳng chống đối những vận dụng quyền lực của cả hai trong tương lai. Sau khi Kỳ được chỉ định làm chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, tôi và anh Bùi Tường Huân đã cất công vào tận Tân Sơn Nhất gặp Kỳ. Qua câu chuyện, tôi có lưu ý Kỳ về âm mưu dùng người Việt làm Lê Chiêu Thống để Mỹ hóa chiến tranh của Mỹ và khổ nhục kế xấu mồi ngồi dai của Thiệu. Kỳ trả lời là không bao giờ Kỳ làm đầy tớ Mỹ, rằng Kỳ sẽ thực hiện lý tưởng cách mạng 1963 là dân chủ tự do. Kỳ quả quyết đủ sức cho Thiệu ở là ở, bảo Thiệu đi là đi vì Kỳ tự nhận mình là cái dù che chở nắng mưa cho Thiệu. Tôi nói đùa: Thiếu tướng coi chừng, ông là cái dù nhưng Thiệu tìm cách làm cái cán thì phiền đó. Tôi nghĩ Kỳ thấy được thiện chí của chúng tôi, cho nên trước khi hoàn thành nội các chiến tranh Kỳ đã nhờ Phạm Văn Liễu ra Huế bốc chúng tôi vào Sài Gòn tham khảo ý kiến. Gia chủ cho cuộc họp này là anh Ngô Trọng Anh. Anh Ngô Trọng Anh và anh Bùi Tường Huân đã đồng ý tham gia nội các của Kỳ... Phạm Văn Liễu Tổng giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, là người giao liên giữa Kỳ với Thi, giữa Kỳ và phe tranh đấu Miền Trung trong khi anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt là người giao liên giữa phe tranh đấu Miền Trung với Thi.”

          “Thế đó, nhưng sau khi gặp Tổng Thống Johnson ở Honolulu về thì Kỳ đổi giọng không còn chuyện mỗi người một phiếu nữa mà phải giáo dục chính trị cho dân thật thấm nhuần dân chủ tự do đã rồi mới cho dân đi bầu. Bộ máy huấn luyện dân chủ cho dân của Mỹ và Thiệu – Kỳ  nói đến là Xây Dựng Nông Thôn, là Dân Ý Vụ, những tấm bình phong của kế hoạch Phụng Hoàng. Số phận dân chủ ở miền Nam ra sao, mọi người đã rõ”.

          “Tuy khó chịu nhưng chúng tôi không phản ứng vội. Kỳ đang như người đội nón rơm chữa lửa, chống Kỳ thì chỉ có lợi cho Thiệu và Thiệu mới là kẻ đáng ngại, bởi sau lưng Thiệu là tàn dư chế đọ cũ đang tập họp lại”.

         “ Cuộc tranh chấp quyền lực giữa Thi và Kỳ xảy ra. Lý do chính là vì Tướng Thi không được mời tham dự hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Việt ở Honolulu nên bắt đầu cay cú với Thiệu – Kỳ và cả Mỹ nữa. Phạm Văn Liễu thân cả hai bên cố dàn xếp nhưng không xong. Thi được lòng quân nhân và công chức vùng I Chiến Thuật nên khi Thi bị Kỳ cất chức Tư Lệnh Vùng thì quân nhân và công chức vùng lên phản đối. Đó là phản ứng của các quân nhân công chức trong vùng, anh chị em chúng tôi không dính đến”. (giaodiemonline/2013/6).

 Như thế, theo Hoàng Văn Giàu, hội nghị Honolulu là nguyên nhân gần dẫn đến Biến Động Miền Trung. Vì không được mời tham dự hội nghị Honolulu nên Nguyễn Chánh Thi mới “cay cú với Thiệu – Kỳ và cả Mỹ nữa”. Và sau cái hội nghị Honolulu ấy, bộ tham mưu của “phe đấu tranh Miền Trung” (nguyên văn) mới nhận ra rằng Nguyễn Cao Kỳ đã thay đổi: đã“làm tôi tớ cho Mỹ”, và phản bội lời hứa “sẽ thực hiện lý tưởng cách mạng 1963 là Dân chủ và Tự do” (nguyên văn).

 1/ Cuộc đồng hành - tương kết giữa áp lực “ly khai” của quân dân miền Trung ủng hộ tướng Thi và cuộc đấu tranh bất bạo động của nhà sư Thích Trí Quang và Phật giáo miền Trung.

Và Phật giáo, nhân “phản ứng của dân chúng và chính quyền miền Trung” trước sự kiên “Tướng Thi bị bãi chức,” đã dấy động phong trào 1966 nhằm tiếp tục thực hiện  chủ trương cố hữu của Thành Phần Thứ Ba vì các mục tiêu: Chế Độ Dân Chủ, Hòa Bình Dân Tộc, Độc Lập Quốc Gia và Cách Mạng Xã Hội (Hoàng Văn Giàu – tài liệu đã dẫn).

Có lẽ nguyên nhân dẫn đến sự “cay cú của Tướng Thi đối với Thiệu – Kỳ và với cả Mỹ nữa” còn nhiều. Dư luận ở Huế vào thời điểm ấy cho rằng tướng Thi là người bộc trực, thẳng thắng và trong sạch, đã nhiều lần công khai bày tỏ sự bất bình trước tình hình tập trung, củng cố quyền lực và tham nhũng của hai Tướng Thiệu – Kỳ. Ngược lại, tướng Thi, theo qui kết của Thiệu – Kỳ, “phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về tình trạng chiến đấu không hữu hiệu của binh lính thuộc quyền chỉ huy của ông tại Thừa Thiên và quân khu I”. Cũng có dư luận cho rằng tướng Thi ngày càng xích lại gần hơn với “phe Phật giáo đấu tranh”. Những cái này kết hợp với câu chuyện Honolulu của Hoàng Văn Giàu (tức Hoàng Nguyên Nhuận) giúp chúng ta tiếp cận một biến động suýt gây nên cuộc nội chiến và cuộc ly khai giữa chính quyền Sài Gòn và Miền Trung –  là cái nôi của Thành phần Chính trị Thứ ba.

 Biến Động Miền Trung liên quan trực tiếp đến hai nhân vật đặc biệt là tướng Nguyễn Chánh Thi và nhà sư Thích Trí Quang. Cả hai đều sinh trưởng ở miền Trung và kết thúc sự nghiệp cũng ở miền Trung trong cùng một biến động. Tuy hoạt động trên hai lãnh vực khác nhau, hoài bảo khác nhau, tầm vóc khác nhau, nhưng cả hai đều mang tâm trạng và vóc dáng người hùng. Người hùng trong buổi loạn ly “được làm vua, thua làm loạn”. Miệng tiếng dân gian là như thế. Nhưng bút mực thì  không thể đơn giản như thế.

 Nguyễn Chánh Thi là một tướng quân. Đời binh nghiệp của ông lúc khởi đầu dính nhập với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, lúc kết thúc lại liên lụy với cuộc chiến tranh Việt Nam của đế quốc Mỹ. Trước Biến Động Miền Trung, ông không nổi tiếng trên chiến trường, nhưng đồng nghiệp và một bộ phận quần chúng nhớ ông bởi bốn cuộc đảo chính mà ông là người chủ động tiến hành, tham dự, hay chỉ huy đánh dẹp:

- Ngày 11. 11.1960 , lúc còn là đại tá Tư lệnh binh chủng dù, Nguyễn Chánh Thi cầm đầu cuộc đảo chính chống Diệm. Đảo chính bất thành, ông chạy trốn và tị nạn bên Cam Bốt. Sau đảo chính 1.11.1963, Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Dương Văn Minh cầm quyền, ông về nước được bổ nhiệm làm phó tư lệnh quân Quân đoàn I, dưới quyền Đỗ Cao Trí, rồi Nguyễn Khánh.

- Ngày 30.1.1964,  Nguyễn Chánh Thi giúp Nguyễn Khánh làm đảo chính lật đổ Dương Văn Minh. Nguyễn Khánh cầm quyền, ông được bổ nhiệm làm tư lệnh sư đoàn I trú đóng tại Huế – bản doanh của phe Phật giáo đấu tranh.

- Ngày 13. 9.1964, Nguyễn Chánh Thi về Sài Gòn cùng Nguyễn Cao Kỳ và Hội đồng Quân lực dẹp yên cuộc đảo chính do các Tướng Dương Văn Đức và Lâm Văn Phát cầm đầu. Nguyễn Khánh tiếp tục cầm quyền, ông được thăng thiếu tướng và được bổ nhiệm tư lệnh quân đoàn I và đại biểu chính phủ tại miền Trung..

- Ngày 19. 2.1965 , Nguyễn Chánh Thi, từ quân đoàn I bay về Sài Gòn đảm nhiệm chức Tư lệnh Giải phóng Thủ đô, cùng Nguyễn Cao Kỳ và Hội đồng Quân lực dẹp yên cuộc đảo chánh do Tướng Lâm Văn Phát và Đại tá Phạm Ngọc Thảo chủ trương. Ông trở thành nhân vật có thanh thế tại Hội đồng Quân lực, trở lại Đà Nẵng tiếp tục làm tư lệnh Quân đoàn I, kiêm nhiệm đại biểu chính phủ tại Trung Phần.

 Tại miền Nam lúc bấy giờ, đảo chính hay chống đảo chính đều theo lệnh tòa Đại sứ, hoặc theo gợi ý của một nhân vật nào đó của Mỹ. Do vậy hoàn toàn có khả năng Nguyễn Chánh Thi nghĩ rằng trong chừng mực nào đó, năm 1960, ông cùng trung tá Vương Văn Đông và các đồng sự đã giúp Mỹ cảnh cáo Ngô Đình Diệm; năm 1964, ông cùng trung tướng Nguyễn Khánh và các tướng Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Đức giúp Mỹ lật Dương Văn Minh; năm 1965 ông cùng nhóm các tướng trẻ lật Nguyễn Khánh đưa hai Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ lên cầm quyền. Với những công lao ấy, đáng lý ra người hùng Nguyễn Chánh Thi được Mỹ và Thiệu – Kỳ mời tham gia Hội nghị Thượng đỉnh Honolulu. Hội nghị Honolulu, khai mạc ngày 6.2, kết thúc ngày 8.2,  bàn về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, ông không được mời tham dự , vì ông không đươc Mỹ và Thiệu – Kỳ công nhận là nhân vật thượng đỉnh. Chẳng những không được là nhân vật thượng đỉnh, mà Nguyễn Chánh Thi còn bị cách chức tư lệnh quân đoàn I và đại biểu chính phủ. Là một tướng quân yên hùng trấn nhiệm ở biên cương, đã chứng kiến và đã tham dự vào gần hết các cuộc tranh bá đồ vương tại miền Nam từ 1954 đến thời điểm này, Nguyễn Chánh Thi không khỏi chạnh lòng liên tưởng cảnh ngộ và tâm sự của mình với cảnh ngộ và tâm sự của Từ Hải trong Đoạn Trường Tân Thanh:

                      Sao bằng riêng một biên thùy,

                      Sức này đã dễ làm gì được nhau?

                      Chọc trời khuấy nước mặc dầu,

                      Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!

 Ngày 11.3.1966 , Hội đồng Quân lực quyết định cách chức tư lệnh vùng I của Nguyễn Chánh Thi, nhưng lời tuyên bố công khai của Thiệu Kỳ là trung tướng Thi nghỉ phép vì bệnh mũi phải đi chữa trị tại Hoa Kỳ. Cùng ngày thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân được cử làm tư lệnh Quân đoàn I.

 Ngày 12. 3:

- Tại Đà Nẵng, nhiều ngàn người bao gồm mọi thành phần: quân nhân, công chức, sinh viên, học sinh, dân thường tập họp trước doanh trại Quân  đoàn I làm mít tin, biểu tình kêu đòi Nguyễn Chánh Thi trở lại chức vụ tư lệnh. Đà Nẵng là nơi Quân đoàn I đóng bản doanh. Đà Nẵng – Quảng Nam cũng là địa phương Quốc Dân Đảng hoạt động khá mạnh. Tướng Thi và Quốc Dân Đảng lại có giao tình. Tướng Thi cũng được lòng quân, dân, cán, chính tại Quân khu I .

 - Tại Huế: Phát xuất từ trường Quốc Học, lan qua trường Đồng Khánh,    rồi các trường trung học trong thành phố, học sinh bãi khóa theo sự vận động của “Ủy ban Quân dân Đấu tranh vùng I chiến thuật”. Mục tiêu đấu tranh là:

            1. Kêu đòi tướng Thi về lại vùng I.

            2. Phản đối tình trạng đấu đá xâu xé nhau giữa các tướng.

            3. Yêu cầu các tướng ra mặt trận.

            . …(LSPTĐTH –  nhiều tác giả – nxb Trẻ 2015)

Như thế, các cuộc đấu tranh xảy ra tại Đà Nẵng, Huế và cả Quảng Nam trong ngày 12. 3 là do sự vận động của Quốc Dân Đảng và “bộ tham mưu” của tướng Thi, không liên quan gì đến Phật giáo.

 Như chúng ta đã biết, từ sau khi tham dự hội nghị thượng đỉnh Honolulu về, chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương Nguyễn Cao Kỳ đã quên những lời hứa: “không làm tay sai cho Mỹ, tiếp tục thực hiện tinh thần cách mạng 1.11.1963, xây dựng chế độ dân chủ…”. Phật giáo miền Trung quyết định phát động lại cuộc đấu tranh, nhưng đang chờ cơ hội. Nay thì cơ hội đã đến: Vụ xung đột giữa tướng Thi và hai tướng Thiệu Kỳ. (Phong trào Đô thị của Mặt trận Giải phóng miền Nam cũng chớp lấy thời cơ, phát động cuộc đấu tranh “dưới ngọn cờ Phật giáo”).

 2/ Diễn biến cuộc Dấn thân của Phật giáo và cuộc “ly khai” của quân dân miền Trung năm 1966

 Ngày 13. 3.1966:

 - Tại Sài Gòn: Viện Hóa Đạo công bố lập trường, kêu gọi 3 điều:

                   1. Chính phủ đoàn kết.

                   2. Các tướng tham gia cách mạng 1.11.1963 phải được trở lại quân đội.

                   3.  Bầu cử quốc hội.

- Tại Huế: –  Lực lượng  Nhân Dân Tranh Thủ Cách Mạng được thành lập tại chùa Từ Đàm do Bửu Tôn là chủ tịch.

                   – Tổng hội Sinh viên và Hội đồng Sinh viên Liên khoa thành lập Hội đồng Sinh viên Tranh thủ Cách mạng, chủ tịch là Nguyễn Hữu Giao.

 Ngày 14 .3.1966, tại Huế, một cuộc mít tin vĩ đại được tổ chức tại chùa Diệu Đế với sự tham dự của khoảng bảy chục ngàn người. Đại diện sinh viên, học sinh, giáo chức, tiểu thương, nhân sĩ trí thức, công chức, công thương gia, lao động lên phát biểu, tất cả đều cương quyết kêu gọi:

            - Hình thành chính phủ đoàn kết.

            - Thực hiện dân chủ.

            - Cải thiện đời sống nhân dân.

            - Bầu cử quốc hội.

            - Phục hồi chức vụ cho các tướng có công trong cách mạng 1.11.1963.

            - Thiệu – Kỳ – Có từ chức.

 Ngày 16.3.1966, tại Thương Bạc – Huế, một cuộc mít tin gồm nhiều chục ngàn người tham dự. Mít tin kết thúc, đoàn người biểu tình tuần hành qua các đường phố dương cao và hô to các khẩu hiệu có nội dung như cuộc mít tin ở chùa Diệu Đế ngày 14. 3.

 Ngày 16. 3.1966:

- Tại Sài Gòn, Hội đồng Quân lưc quyết định đưa Nguyễn Chánh Thi  ra Đà Nẵng để làm dịu tình hình. Cùng đi với Nguyễn Chánh Thi có đại tá Phạm Văn Liễu, tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia, và trung tá Nguyễn Ngọc Loan, giám đốc An ninh Quân đội. (Đoàn Thêm. Viêc Từng Ngày 1966, tr 45).

 - Tại Mỹ, tổng thống Johnson đã ban hành luật cho phép chi tiêu 4 tỷ 8 về chiến cuộc Việt Nam, sau khi quốc hội chấp thuận ( chỉ có 6 phiếu chống tại 2 viện) (Đoàn Thêm, VTN 1966).

 Ngày 17. 3.1966, tại Sài Gòn, đại sứ Cabot Lodge gặp thượng tọa Thích Trí Quang, hai tướng Thiệu – Kỳ  gặp thượng tọa Thích Tâm Châu đề nghị ngưng biểu tình. Các vị lãnh đạo Phật giáo đồng ý ngưng biểu tình với điều kiện chính phủ giữ lời hứa: tổ chứ bầu cử quốc hội và chính phủ dân sự. (Đoàn Thêm, VTN 1966).

  Ngày 17 .3.1966, Nguyễn Chánh Thi tham dự cuộc mít tin được tổ chức tại quảng trường Thương Bạc – Huế. Trên diễn đàn ông tuyên bố sẵn sàng đứng về phía nhân dân làm cách mạng chống lại chế độ Thiệu – Kỳ, xây dựng chế độ dân chủ, kiên định lập trương chống Cộng.( LSPTĐTH – nhiều tác giả –  nxb Trẻ 2015.).

 Ngày 19.3.1966, tại Sài Gòn, Viện Hóa Đạo nhân danh Giáo hội Phật giáo Thống nhất tuyên bố “không chống chính phủ mà chỉ đòi hỏi bầu cử và thành lập chính phủ Dân sự”.( Đoàn Thêm VTN 1966)

Ngày 22.3.1966, tại Huế:

            - Hội Đồng Sinh Viên Tranh Thủ Cách Mạng tổ chức hội thảo. Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Huế –  Trần Xuân Kiêm – đọc một tham luận nẩy lửa tố cáo sự can thiệp trắng trợn của Mỹ vào Việt Nam.

            - Giáo chức tại Huế thành lập Lực lượng Tranh thủ Cách mạng tuyên bố chống sự can thiệp của Mỹ và sự lệ thuộc ngoại bang của chính quyền Thiệu – Kỳ.( LSPTĐTH – nhiều tác giả - nxb Trẻ Tp HCM – 2015).

 Ngày 23, tại Huế:

           -Hội đồng Sinh viên Liên khoa Huế tổ chức hội thảo chống Mỹ –  Thiệu – Kỳ. Sau hội thảo, sinh viên kéo đến chiếm Đài phát thanh, tổ chức phát thanh bằng ba thứ tiếng Việt, Anh, Pháp.

           -Trên quảng trường Thương Bạc, khoảng 7000 người họp mít tin tố cáo Mỹ biến miền Nam thành thuộc địa. Mít tin kết thúc, quần chúng diễn hành qua các đường phố hô vang các khẩu hiệu chống Mỹ –  Thiệu – Kỳ.

 Ngày 25.3.1966, tại Sài Gòn: Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố trước báo chí: “Kho gạo miền Trung sắp cạn, dân chúng biểu tình cản trở việc chuyển vận và bốc giở. Dân chúng Đà Nẵng, Huế có thể bị thiếu lương thực.( LSPTĐTH – nhiều tác giả - nxb Trẻ TpHCM)

Ngày 27. 3:

Tại Huế, một cuộc mít tin vĩ đại gồm bảy tám chục ngàn người đủ mọi tầng lớp nhân dân, kể cả quân nhân và cảnh sát diễn ra tại chùa Diệu Đế kêu đòi cải thiện đời sống nhân dân, thực thi dân chủ, bầu cử quốc hội, giảm thiểu sự lệ thuộc ngoại bang. Gần như cả tỉnh Thừa Thiên – Huế đình chỉ mọi hoạt động thường ngày. Dân chúng hưởng ứng đấu tranh: chợ không đông, tiệm buôn không mở , trường học đóng cửa, xe cộ không lưu thông…(LSPTĐTH – nhiều tác giả - nxb Trẻ TpHCM).

Tại Sài Gòn: Thượng tọa Thích Tâm Châu kêu gọi dân chúng bình tĩnh, chờ chính phủ thực hiện các lời hứa. Mặc dù vậy, một cuộc mít tin chống chính phủ gồm vài chục ngàn người đã diễn ra (ĐT,VTN,1966).

 

3/ Nguyễn Cao Kỳ quyết dùng biện pháp mạnh để dẹp yên vụ Miền Trung.

 Ngày 29, tại Sài Gòn, Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố trước báo chí: “sẽ dùng biến pháp mạnh đối với các cuộc phá rối an ninh trật tự ở miền Trung.”( ĐT,VTN,1966).

 Bất chấp lời tuyên bố của thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ, phong trào đấu tranh vẫn rầm rộ diễn ra tại Huế, tại Sài Gòn, tại Đà Lạt, Nha Trang, Qui Nhơn, Quảng Ngãi, Đà Nẵng và nhiều tỉnh thành khác nữa.

 Ngày 30. 3 :

- Tại Đà Nẳng, hơn 2000 người đã tập họp trước trại quân Mỹ để phản đối hành vi khiêu khích của lính Mỹ. Một sĩ quan đại diện trại ra xin lỗi đồng bào. ( LSPTĐTH – nhiều tác giả - nxb Trẻ Tp HCM - 2015).

 - Tại Huế, Lực lượng Tranh thủ Cách mạng tổ chức mít tin tại quảng trường Thương Bạc. Hơn 20.000 người tham dự, trong đó có cả ngàn người là cảnh sát. Đại diện cảnh sát lên diễn đàn tuyên bố ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân chống Mỹ – Thiệu – Kỳ.( LSPTĐTH – nhiều tác giả - nxb Trẻ Tp HCM - 2015).

 Ngày I. 4.1966 :

- Tại Sài Gòn, sinh viên, học sinh và dân chúng làm mít tin “Giỗ tổ Hùng Vương,” gắn biển đồng vào tượng Quách Thị Trang, tuyên bố chống Mỹ – Thiệu – Kỳ, kêu đòi tự do báo chí, gấp rút tổ chức bầu cử Quốc hội lập hiến (ĐT,VTN1966)

 - Tại Huế” Lực lượng Nhân dân Tranh thủ Cách mạng tổ chức mít tin ở Quảng trường Thương Bạc, khoảng 20.000 người tham dự gồm các thành phần quần chúng nhân dân trong đó có nhiều binh lính và cảnh sát.

 - Tại Huế, một cuộc đón tiếp kỳ lạ của Lực lượng Nhân dân Tranh thủ Cách mạng dành cho trung tướng Phạm Xuân Chiểu, tổng thư ký vừa là đặc sứ của Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia từ Sài Gòn ra. Tướng Chiểu bị cô lập ở Tòa đại biểu chính phủ trong nhiều giờ, bị mời lên xe xích lô cùng với tướng Thi đến Đài phát thanh Huế trước sự hộ tống của hàng vạn người biểu tình. Tại đài phát thanh Huế, qua làn sóng điện, một cuộc chất vấn đã diến ra giữa đại diện Lực lượng đấu tranh và tướng Chiểu. Sau cuộc chất vấn, tướng Chiểu, có tướng Thi đi cùng, trở về tòa Đại biểu chính phủ cũng bằng xe xích lô giữa rừng người biểu tinh. Các tiểu thương chợ Đông Ba đã nấu nướng chiêu đãi tướng Chiểu trong thời gian ông làm đặc sứ .

Ngày hôm sau, tướng Chiểu trở lại Sài Gòn mang theo Thông điệp của Lực lượng Nhân dân Đấu tranh Cách mạng. Thông điệp có nội dung :

           - Đả đảo Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia

           - Quần chúng muốn có ngay một quốc hội và một chính phủ dân cử

           - Đả đảo Thiệu – Kỳ– Có .  (LSPTĐTH – nhiều tác giả - nxb Trẻ Tp HCM - 2015)

 Ngày 2.4.1966, tại Huế, một cuộc mít tin của khoảng 20.000 người bao gồm sinh viên, học sinh, giáo chức, quân nhân, cảnh sát, công tư chức và quần chúng nhân dân. Sau mít tin, mọi người tuần hành qua các đường phố nêu cao các khẩu hiệu:

          - Phản đối chính phủ thối nát Thiệu – Kỳ – Có

          - Phản đối Mỹ can thiệp vào nội tình Việt Nam

          - Chủ quyền Việt Nam do người Việt Nam định đoạt

          - Không sợ chính quyền đe dọa, khủng bố.

 Ngày 3.4.1966, tại Sài Gòn: Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố trước báo chí rằng Cộng Sản đã xâm nhập vào các phong trào đấu tranh tại miền Trung. Tuyên bố này đã không dập tắc được phong trào, còn làm tăng thêm cường độ đấu tranh tại Huế và các đô thị miền Trung khác.

 Ngày 4.4.966, tại Huế, Lực lượng Giáo chức cùng đông đảo sinh viên, học sinh và đồng bào các giới đã họp mít tin trên quảng trường Thương Bạc. Các đại biểu đã tố cáo Hoa Kỳ xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Kêu gọi thế giới và Tổ chức Liên Hiệp Quốc ủng hộ cuộc đấu tranh vì quyền Dân tộc Tự quyết của nhân dân Việt Nam.

Sau mít tin, đoàn biểu tinhg tuần hành qua các đường phố, đến trước tòa Lãnh sự Hoa Kỳ đưa tuyên ngôn bao gồm các nội dung trên nhờ tòa Lãnh sự chuyển tới tổng thống Mỹ và tổng thư ký Liên Hiệp Quốc (LSPTĐTH – nhiều tác giả - nxb Trẻ Tp HCM – 2015).

 Ngày 5.4.1966, bằng cầu không vận Mỹ, thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ đưa quân ra Đà Nẵng. Quân ly khai và quân chính phủ dàn trận. Tướng Walt chỉ huy Thủy quân lục chiến Mỹ tại Đà Nẵng can thiệp mới tránh được cuộc đụng độ. Cùng ngày (5. 4), tại Đà Nẵng, Đại tá Đàm Quang Yêu (tư lệnh biệt khu Quảng Đà), bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn (thị trưởng Đà Nẵng) tuyên bố ly khai với chính phủ Trung ương. Thị trưởng Nguyễn Văn Mẫn bị cách chức, ông cùng những binh lính ly khai sử dụng chùa Phổ Đà (Đà Nẵng) làm trụ sở đấu tranh.

Ngày 6.4.1966, tại Huế, Đoàn Sinh viên Quyết tử được thành lập, do sinh viên Nguyễn Đắc Xuân làm trưởng đoàn. Các sinh viên Quyết tử được các quân nhân ly khai huấn luyện quân sự. Đây là tổ chức đấu tranh bán vũ trang của sinh viên. Nhà sư Thích Trí Quang phản đối sự thành lập này. Nhưng Đoàn vẫn tồn tại cho đến cuối tháng 4, đã chi viện tinh thần cho lực lượng ly khai ở Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi.

 Ngày 8.4.1966, thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ trực tiếp điều Thủy quân lục chiến ra Đà Nẵng. Chiến sự chưa nổ ra vì Hoa Kỳ khuyến cáo chính phủ Việt Nam nên giải quyết vấn đề bằng thương lượng.

Ngày 9. 4, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia cử trung tướng Tôn Thất Đính ra Đà Nẵng làm tư lệnh quân đoàn I, thay thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân. Đây là thủ đoạn “một bước lùi” của chính quyền Trung ương: Các tướng có công tham gia Cách mạng 1.11.1963 được trở lại quân đội theo yêu cầu của Lực lượng Nhân dân Tranh thủ Cách mạng.

Ngày 12. 4. 1966:

- Tại Sài Gòn, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia triệu tập Đại hội Chính trị Toàn quốc gồm đại diện các đảng phái, tôn giáo, các phe nhóm chính trị và các Chủ tịch Hội đồng Tỉnh thị (Công giáo và Phật giáo không dự). Kết thúc Hội nghị (ngày 16. 4), trung tướng Nguyễn Văn Thiệu công bố sắc luật 14/66 về việc tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến. Trong dịp này chủ tịch Nguyễn Văn Thiệu khẳng định rằng “Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia chấp thuận 10 đề nghị Dân chủ hóa do Hội nghị Chính trị đưa ra. Đây cũng là bước lùi thứ hai của hai ông Thiệu – Kỳ.

- Tại Huế, Lực lượng Nhân dân Tranh thủ Cách mạng họp mít tin trên quảng trường Thương Bạc. 20.000 người tham dự phản đối Hội nghị Chính trị do Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia tổ chức tại Sài Gòn vì cho rằng: hai ông Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ không là đại diện chân chính của nhân dân mà do người Mỹ lựa chọn đưa lên. Hội nghị do hai ông tổ chức là trò bịp làm kế hoãn binh. Mít tin đề nghị nên thành lập một chính phủ lâm thời, người Mỹ phải tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam.(LSPTĐTH – nhiều tác giả - nxb Trẻ tp HCM 2015).

 Ngày 17.4.1966, nhà sư Thích Trí Quang từ Sài Gòn ra Huế, ông đề nghị Lực lượng Nhân dân Tranh thủ Cách mạng tạm dừng cuộc đấu tranh để chờ chính quyền bày tỏ thiện chí.

Đề nghị này của nhà sư Trí Quang bị phản đối bởi các thành viên chủ trương đấu tranh quyết liệt trong Lực lượng Nhân dân Tranh thủ Cách mạng. Khuynh hướng bạo động ngày một gia tăng trong tương quan lực lượng của các tổ chức đấu tranh. Mệnh lệnh của nhà sư Trí Quang không còn có giá trị tuyệt đối. Những lãnh tụ Phật tử trẻ (như Hoàng Văn Giàu, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Xuân Kiêm…) mỏi mòn lần tinh thần bất bạo động. Những người lính ly khai thích dùng súng đạn hơn cầu nguyện và tuyệt thực. Người của Mặt trận Giải phóng đấu tranh dưới “Ngọn Cờ Phật Giáo”(như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan…) lên án nhà sư Trí Quang thỏa hiệp, họ chờ cơ hội để đốt nóng phong trào. Sinh viên học sinh và thanh niên lao động sẵn sàng tiến lên làm ngòi pháo.

 Thủ đoạn của Chính phủ thì vừa đánh vừa đàm, vừa lũng đoạn lực lượng đối phương, vừa tăng cường các đơn vị trấn áp, khép chặt vòng vây, đánh dẹp các địa phương trước, thanh toán trung tâm đầu não sau cùng.

Ngày 1.5.1966, thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố trước báo chí là sẽ dùng các biện pháp thích ứng để giải quyết dứt điểm các vụ lộn xộn. (LSPTĐTH – nhiều tác giả - nxb Trẻ Tp HCM – 2015).

Ngày 7.5.1966, thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ cho báo chí biết là Chính phủ quân nhân sẽ cầm quyền thêm một năm nữa, Quốc hội Lập hiến sẽ bầu vào tháng 10 (thay vì tháng 8 như đã hứa trước đây) và Quốc hội Lập pháp sẽ bầu trong năm sau. (LSPTĐTH – nhiều tác giả - nxb Trẻ tp HCM – 2015) )

Phe tranh đấu phản ứng mạnh trước những lời tuyên bố của tướng Kỳ. Nhiều cuộc mít tin biểu tình liên tiếp diễn ra khắp các tỉnh miền Trung.

Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ dứt khoát dùng những biện pháp mạnh.

Các ngày 14, 15, 16 tháng 5. 1966, bằng các phương tiện vận chuyển của Mỹ, 40 xe tăng và thiết vận xa, 5 tiểu đoàn lính dù –  thủy quân lục chiến được chính phủ Trung ương đưa tới Đà Nẵng. Súng đã nổ giữa quân chính phủ và lực lượng ly khai. Nhiều người chết và bị thương. Đài phát thanh Đà Nẵng bị quân chính phủ chiếm lại chỉ sau một tiếng đồng hồ. Quân ly khai rút lui. Trung tướng Tôn Thất Đính chạy ra Huế. Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao được cử ra Đà Nẵng làm tư lệnh Quân đoàn I. Trung tướng Nguyễn Chánh Thi được gọi ra trình diện.

Ngày 17.5, thiếu tướng Huỳnh Văn Cao ra Huế thị sát tình hình. Tại phi trường Tây Lộc, hàng ngàn người thuộc phe ly khai bao vây ông tư lệnh mới. Thiếu úy Nguyễn Đại Thức đã bắn vào máy bay trực thăng do phi công Mỹ lái chở Tướng Huỳnh Văn Cao đang cất cánh. Xạ thủ đại liên người Mỹ trên trực thăng bắn chết thiếu úy Thức và làm bị thương 6 quân nhân khác. Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao thoát nạn về Đà Nẳng, xịn thôi chức vụ. Thiếu tướng Cao Văn Viên được cử ra Đà Nẵng làm tư lệnh quân chính phủ đàn áp quân ly khai. Trước sức tấn công hùng hậu của quân Dù và Thủy quân Lục chiến, quân ly khai nhanh chóng bị đánh bại. Ngày 23.5 đơn vị ly khai cuối cùng cố thủ tại chùa Tỉnh hội Phật giáo Đà Nẵng (đường Ông Ích Khiêm) đầu hàng. Bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn và Đại tá Đàm Quang Yêu (nguyên tư lệnh đạc khu Quảng Đà) bị bắt cùng 2000 quân nhân, cảnh sát, công chức dưới quyền. Tại Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Nha Trang, Đà Lạt,…các đơn vị chính phủ (cảnh sát và quân đội) cũng đã đánh dẹp xong các lực lượng đấu tranh trong các ngày 21,22,23. Riêng tại Đà Lạt, phe đấu tranh đã chống trả quyết liệt. Có người chêt và nhiều người bị thương. Chính quyền ban lệnh giới nghiêm 24/24, thành phố trở nên tiêu điều. 

Ngày 24.5 tại rạp Thống Nhất Sài Gòn, chính phủ triệu tập Đại hội Quân dân để báo cáo về tình hình Đà Nẵng và miền Trung – Huế.

 

4/ Dẹp yên Đà Nẵng và các tỉnh miền Trung khác, quân chính phủ tập trung lực lượng  tiến ra Huế.

 Tại Huế, sau cái chết của Thiếu úy Nguyễn Đại Thức và cuộc tháo chạy của thiếu tướng Huỳnh Văn Cao, sự phẫn nộ và phấn khích của các phe nhóm đấu tranh đã lên tới đỉnh điểm. Các sĩ quan và binh lính li khai thuộc sư đoàn I, sinh viên học sinh và quần chúng đấu tranh đã tổ chức đám tang thiếu úy Thức rất rầm rộ. Họ tôn vinh ông là anh hùng. Họ thành lập một đơn vị chiến đấu để liều chết chống lại “quân Mỹ – Thiệu – Kỳ”. Họ lấy tên ông đặc cho đơn vị chiến đấu đó. Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức hình thành với khoảng 1000 sĩ quan và binh lính ly khai tình nguyện tham gia. Nhiệm vụ của chiến đoàn là trấn giữ trên đỉnh đèo Hải Vân để ngăn chặn quân chính phủ từ Đà Nẵng tấn công ra. Họ cũng tổ chức các chốt phong ngự quanh thành phố. Nhà sư Thích Trí Quang phản đối sự thành lập chiến đoàn và ý đồ bạo động của nhóm quân nhân ly khai. Ông vẫn kiên định lập trương đấu tranh bất bạo động. Nhưng vào thời điểm và trước tình thế đó, lời phản đối của ông chẳng còn tác động như là mệnh lệnh thiêng liêng trước đây.

Ngày 16.5, “Nhiều đơn vị Thủy quân lục chiến được điều ra Huế”. Ngày 18.5, “Nhiều đơn vị Nhảy dù và Thủy quân lục chiến khác tiếp tục lên đường. Quân Chính phủ phải dừng lại trên đèo Hải Vân. Quân chống đối chính phủ dàn ở trước mặt. Thiếu tướng Kỳ tuyên bố nếu cần sẽ dùng vũ lực” (ĐT,VTN – 1966),

Cùng ngày, “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tuyên cáo trách chính phủ, đòi rút quân khỏi Huế, Đà Nẵng, đồng thời xác nhận không tin tưởng các tướng Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ; ủng hộ cuộc đấu tranh ở miền Trung; kêu gọi tăng ni, phật tử sẵn sàng tranh đấu. 24 Tuyên úy Phật giáo tuyệt thực 24 giờ. Hàng ngàn người biểu tình tại Viện Hóa Đạo”. (ĐT,VTN – 1966).

Ngày 23.5.1966, tại Huế: “Lực lượng đấu tranh Huế báo động. Đoàn Sinh viên Quyết tử (sau khi nhà sư Trí Quang ra lệnh giải tán, tổ chức này đổi tên Sinh viên Phụng sự Xã hội), học sinh, giáo chức ứng chiến, trực gác ngày đêm bảo vệ trường học, công sở.

Giáo hội Phật giáo chỉ thị cho phật tử, tăng, ni tăng cường bảo vệ chùa và các cơ sở khác của giáo hội”(LSPTĐTH – nhiều tác giả - nxb Trẻ - tpHCM – 2015).

Ngày 24.6.1966, tại Mỹ: “Chủ tịch Thượng viện Mỹ tuyên bố: Hoa Kỳ tiếp tục nhiệm vụ tại Việt Nam”. (ĐT,VTN - 1966)

Cùng ngày (24.6.1966):

-Tại Sài Gòn, buổi sáng: “Tăng, ni, phật tử biểu tình tuần hành qua nhiều đường phố, bị giải tán bằng lựu đạn cay. Thượng tọa Trí Quang yêu cầu lần thứ ba tổng thống Johnson và Quốc hội Mỹ đừng ủng hộ chính phủ Nguyễn Cao Kỳ nữa”. (ĐT,VTN,1966).

-Tại Huế, buổi chiều: “Lực lượng Nhân dân Tranh thủ Cách mạng tổ chức Hội thảo tại giảng đường C, Đại học Khoa học Huế. Hàng ngàn sinh viên, học sinh, đồng bào các giới, cảnh sát, binh lính tham dự. Hội thảo lên án Thiệu – Kỳ  đàn áp nhân dân tại Đà Nẵng, Đà Lạt và các tỉnh khác; lên án Mỹ hậu thuẫn cho Thiệu – Kỳ trong tất cả các hành động chống lại nhân dân Việt Nam; lên án Văn hóa nô dịch và đồi trụy Mỹ. Sau hội thảo đoàn người kéo tới đốt cháy Phòng Thông Tin Hoa Kỳ. Đây là lần thứ hai, sau 5 tháng, cơ quan văn hóa này hứng chịu sự phẫn nộ của quần chúng đấu tranh Huế. Một lần nữa nhà sư Trí Quang lên tiếng phản đối các hành vi bạo động này. Lời kêu gọi khẩn thiết của ông chìm trong lửa cháy và tiếng gào thét của đám đông phẫn nộ.(LSPTĐTH, nhiều tác giả, nxb Trẻ, tpHCM  2015).

 Ngày 27.5. 1966: “76 sư tăng và 30 ni cô tới tuyệt thực 48 giờ trước tòa Lãnh sự Mỹ ở Huế, và trao một huyết thư viết bằng mảnh tre để chuyển tới tổng thống Johnson”. (ĐT,VTN 1966).

 Cũng trong ngày (27.5 1976), hai tướng Mỹ Westmoreland và Walt vận động hai tướng Kỳ – Thi gặp nhau tại Chu Lai để giải quyết cuộc xung đột trong thương lượng và hòa giải. (LSPTĐTH, nhiều tác giả, nxb Trẻ tp HCM 2015)

 Ngày 28.5.1966, Tỉnh trưởng Thừa Thiên Phan Văn Khoa, qua Đài phát thanh Huế, kêu gọi Lực lượng đấu tranh giải tán. Lời kêu gọi gồm 4 điểm:

        (1) Chính quyền phải kiểm soát đài phát thanh và cho phép Lực lượng tranh đấu phát thanh mỗi ngày một giờ với điều kiện bài vở phải được kiểm duyệt.

        (2) Lực lượng đấu tranh phải giao nộp các vũ khí bất hợp pháp đang sở hữu.

        (3) Giải tán ngay các lực lượng dân sự đang canh gác và hoạt động trong thành phố Huế.

        (4) Chính quyền sẽ cho phép Lực lượng đấu tranh hoạt động với tính cách thuần túy chính trị bất bạo động.(LSPTĐTH, nhiều tác giả, nxb Trẻ tp HCM 2015).

 Cuộc chiêu hàng thất bại. Trung tá Phan Văn Khoa quyết định di tản chiến thuật. Ông dời bản doanh về quận lỵ Hương Thủy. Người Mỹ di tản khỏi thành phố Huế. Đây là bước chuẩn bị để quân chính phủ tấn công từ bồn phía (từ đèo Hải Vân - Hương Thủy ra, từ Nam Hòa xuống, từ Thuận An lên, từ An Hòa vào). Trung tá Khoa ra lệnh giới nghiêm. Lực lượng Đấu tranh vẫn kiên định lập trường không đầu hàng theo lời kêu gọi của trung tá Khoa, nhưng nội bộ không thống nhất phương pháp đấu tranh. Nhà sư Trí Quang vẫn kiên trì đường lối đấu tranh bất bạo động. Lực lượng Sinh viên, Học sinh Tranh thủ Cách mạng, Lực lượng Giáo chức Tranh thủ Dân chủ và Lực lượng Quân nhân Cảnh sát ly khai vẫn cương quyết chiến đấu đến cùng.  .

 Ngày 28.5, tại chùa Từ Đàm, nhà sư Thích Trí Quang lại ra lời kêu gọi tổng thống Johnson thay đổi chính sách, dừng lại các hành động ủng hộ hai ông Thiệu – Kỳ quân phiệt hóa đường lối cai trị tại Việt Nam. Nhà sư Trí Quang một lần nữa khẳng định Phật giáo không bài ngoại, chỉ đấu tranh cho một chế độ dân chủ bằng phương thức bất bạo động.

 Ngày 29.5, ni sư Thanh Quang tự thiêu tại chùa Diệu Đế. Nhiều tăng ni, phật tử tổ chức lễ cầu siêu và chuẩn bị làm đám tang cho vị thánh tử đạo.

 Ngày 30.5 :

-Tại Mỹ, tổng thống Johnson tuyên bố: “ Những hành động tuyệt vọng chỉ làm mờ tối con đường dẫn tới Quốc hội Lập hiến ở Việt Nam ” (LSPTĐTH, nhiều tác giả, nxb Trẻ tp HCM 2015).

-Tại Sài Gòn: Tổng đoàn Thanh niên Chí nguyện Phật tử rút thăm cho một, hai người tự thiêu. (ĐT,VTN,1966).

 - Tại Huế: Lực lượng Tranh thủ Cách mạng “Phát động Phong trào bài Mỹ kịch liệt, tẩy chay, bãi công, đốt phá” (ĐT,VTN,1966).

                “ Hội đồng Sinh viên Tranh thủ Cách mạng tổ chức hội thảo kêu gọi sinh viên, học sinh và đồng bào tuyệt giao với Mỹ. Kết thúc hội thảo, sinh viên học sinh xuống đường biểu tình, kéo tới đốt tòa Lãnh sự Hoa Kỳ. Đây là lần thứ 2 sau 5 tháng cơ quan ngoại giao này bị đốt. 

                 “ Nữ sinh Phật tử Nguyễn thị Vân tự thiêu tại môt ngôi chùa trong thành nội để phản đối Mỹ leo thang chiến tranh và Thiệu – Kỳ  đàn áp dã man quần chúng đấu tranh” (LSPTĐTH nhiều tác giả nxb Trẻ tpHCM 2015).

                 “ Đức Tăng thống và Viện Hóa Đạo kêu gọi ngừng các vụ tự thiêu và biểu tình”. (ĐT,VTN,1966).

 Ngày 1.6.1966, tại Sài Gòn: Nhà sư Thích Thiện Minh bị ám sát, thoát chết, nhưng bị thương nặng, phải vào bệnh viện cấp cứu. (ĐT,VTN,1966).

 Cuộc quay trở lại Huế của chính quyền Phan Văn Khoa và cuộc khép chặc vòng vây của các cánh quân chính phủ từ bốn phía thực sự bắt đầu vào ngày 1 tháng Sáu. Không có sự kháng cự  nào trên đường hành quân của họ. Đến trưa, quân của trung tá Khoa đã chiếm lại Đài phát thanh. Một chi đoàn thiết giáp từ An Hòa vào trấn ngự quảng trường Thương Bạc sau đó.Từ quận Nam Hòa (phía Tây Huế) và từ Thuận An (phía Đông Huế), quân chính phủ và những Cố vấn Mỹ cũng tiến chiếm các địa điểm trung tâm thành phố vào buổi chiều.

 Ngày 2.6, tỉnh trưởng Phan Văn Khoa, qua đài phát thanh Huế, phát lệnh giới nghiêm và lời kêu gọi nộp vũ khí (ĐT,VTN,1966). Chưa có chuyện đầu hàng nộp súng.

 Ngày 5.6, 3000 quân chính phủ với xe tăng sau khi phá vỡ tuyến phòng ngự của chiến đoàn Nguyễn Đại Thức trên đèo Hải Vân, tiến ra Huế, dừng lại ở huyện Hương Thủy đợi lệnh.

 

5/ Cuộc chiến giữa bạo lực Mỹ Thiệu Kỳ và bàn thờ Phật

 Ngày 6.6, nhà sư Thích Trí Quang kêu gọi Phật tử đưa bàn thờ Phật xuống đường. Phật tử Huế và Phật tử các tỉnh miền Trung: Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Nha Trang, Phan Thiết, Đà Lạt, Lâm Đồng, Ban Mê Thuột và một vài nơi ở Sài Gòn đã hưởng ứng lời ông. Bàn thờ Phật và những người bảo vệ nó bao gồm trẻ em, người già, phật tử, tăng, ni với những công cụ báo động như mõ, phèn la, thùng thiếc, soong nồi đã tạo nên một quang cảnh kỳ lạ ngăn chặn các phương tiện giao thông của quân chính phủ. Quang cảnh kỳ lạ này gây sửng sốt cho các ký giả nước ngoài và làm cho trung tá Phan Văn Khoa cùng chính quyền Nguyễn Cao Kỳ điên đầu. Bởi vì chỉ trước đó không lâu, ngày 28.5, nhân danh tỉnh trưởng Thừa Thiên, kiêm thị trưởng Huế và tiểu khu trưởng Thừa Thiên Huế, ông Phan Văn Khoa trong lời kêu gọi đầu hàng quảng bá trên các phương tiện truyền thông đã hứa cho phép “Lực lượng Tranh thủ hoạt động với tinh thần thuần túy chính trị bất báo động.”

Bàn thờ Phật, tăng, ni, phật tử xuống đường là bạo động hay bất bạo động? Chính quyền cần phải cân nhắc cẩn trọng trước khi ra tay.

 Ngày 7.6. 1966:

    -Tại Huế, tỉnh trưởng Phan Văn Khoa qua các phương tiện truyền thông, kể cả máy bay gắn loa phóng thanh, kêu gọi đồng bào phật tử dọn bàn thờ vào nhà và Lực lượng đấu tranh giải tán.

    - Tại Sài Gòn, chính quyền vận động nhà sư Thích Tâm Châu mở chiến dịch phản đối hành động “bêu riếu Phật giáo” của nhà sư Thích Trí Quang và kêu gọi phật tử rước bàn thờ Phật vào nhà.( ĐT,VTN,1966).

    - Đồng thời, tướng Kỳ quyết định tăng cường lực lượng để giải quyết dứt điểm nhóm quân nhân ly khai và Lực lượng Tranh thủ nhằm vãn hồi an ninh trật tự tại Huế. Ngày “7.6.66, ba tiểu đoàn vừa Nhảy dù, vừa Thủy quân lục chiến tới trường bay Phú Bài, và đóng cách Huế 8 cây số”. Ngày “10.9.66, một tiểu đoàn Cảnh sát Dã chiến được gởi tới Huế”. Ngày “12.9.66, “TQLC, một tiểu đoàn, được gởi thêm ra Huế.”Ngày “13.6.66, 150 Cảnh sát Dã chiến được gửi ra thêm”. (ĐT,VTN,1966).

 Như thế, không kể các chi đội xe tăng, hai binh chủng thiện chiến nhất của quân đội Việt Nam Cộng Hòa là Nhảy Dù và Thủy quân Lục chiến đã có mặt tại Huế tổng cộng hơn 10 tiểu đoàn, cộng thêm một tiểu đoàn chống nổi dậy, Cảnh sát Dã chiến, là 11. Ngoài ra, còn có mấy tiểu đoàn Biệt chính và Xây dựng Nông thôn của Quốc Dân Đảng (sau khi Nguyễn Chánh Thi hợp tác với Phật giáo, Quốc Dân Đảng quay lại ủng hộ chính quyền) và Đại Việt.

 Quyết ý của tướng Kỳ đã rõ.

 Tuy nhiên, đồng bào Phật tử không đưa bàn thờ Phật vào nhà theo lời kêu gọi của chính quyền. Chính quyền cũng chưa tìm ra giải pháp thích hợp để dẹp bàn thờ, mở đường thông xe. Xe tăng vẫn nằm yên ở quảng trường Thương Bạc và các cửa ngỏ vào thành phố. Trước tình thế đó, kế hoạch của đại tá Nguyễn Ngọc Loan, người được chỉ định làm tư lệnh cuộc tấn công quân ly khai và Lực lương Tranh thủ là: Nhảy Dù, Thủy quân Lục Chiến, Cảnh sát Dã chiến, Cảnh sát địa phương, Biệt chính, Xây dựng Nông thôn được tổ chức thành từng đơn vị thích ứng, hành quân bộ, nhắm các mục tiêu trách nhiệm được chỉ điểm trên bản đồ, và được hướng dẫn bởi các tình báo viên thổ địa.(Theo lời kể của một sĩ quan thân cận trung tá Phan Văn Khoa).

 Về phía Phật giáo, cuộc đấu tranh bất bạo động vẫn kiên định và tiếp tục:

Ngày 8.6.1966, nhà sư Thích Trí Quang bắt đầu cuộc tuyệt thực “cho đến chết” trước ban công Tòa Hành chánh tỉnh Thừa Thiên. (Xem Hoàng Nguyên Nhuận (Hoàng Văn Giàu) – giaodiemonline.com/2013/6).

Ngày 11.6, tại chùa Diệu Đế, Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên tổ chức kỷ niệm 3 năm ngày Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu (11.6.1963 – 11.6.1966). Sau buổi lễ, cả mấy ngàn người biểu tinh từ chùa Diệu Đế lên chùa Từ Đàm mang theo những biểu ngữ có nội dung:

                          - Đả đảo Thiệu – Kỳ đàn áp Phật giáo.

                          - Đả đảo chính quyền thực dân Johnson.

                          - Thiệu – Kỳ từ chức.(LSPTĐTH nhiều tác giả nxb Trẻ tp HCM 2015)).

Ngày 13.6, nhà sư Trí Quang vẫn tiếp tục tuyệt thực, sức khỏe của ông giảm sút nghiêm trọng. “Một phái đoàn gồm 5 vị thượng tọa cùng đức Tăng thống tới thăm thượng tọa Thích Trí Quang và yêu cầu ngưng tuyệt thực, nhưng không kết quả”. (ĐT,VTN,1966).

 Từ ngày 10.6.1966, quân chính phủ “hành quân bộ” theo từng đơn vị thích hợp chia cắt quân ly khai theo từng khu vực nhỏ. Không có tài liệu nào (theo tôi biết) ghi chép là có các cuộc giao tranh lớn. Ký ức dân chúng Huế không có dấu ấn  bom đạn chết chóc trong những ngày này.

Chắc là Lực lượng ly khai của sư đoàn I đã không có hành động kháng cự rõ rệt. Từ sau khi Đà Nẳng “thất thủ”, các quân nhân ly khai ở Huế cạn dần ý chí “ly khai.” Có nhiều khả năng hơn, “Ly khai” chỉ là động tác giả theo như mưu lược của nhà sư Trí Quang và tướng Nguyễn Chánh Thi.

 Theo tài liệu của nhóm tác giả trong Lịch sử Phong trào Đô thị Huế (nxb Trẻ tp HCM  - 2015) dẫn lời của hảng Thông tấn UPI ngày 11.6.1966:

“Theo lệnh của nhà cầm quyền tỉnh Thừa Thiên, từ nay cảnh sát được phép đột nhập các nhà chùa và các nhà dân sự để lùng bắt những người thuộc lực lượng chống đối (…). Sáng sớm ngày 11 tháng 6, cảnh sát đã tiến vào một ngôi chùa ở Huế để bắt một viên sĩ quan ly khai. Tin tức cũng cho biết rằng tại Huế có từ 50 đến 100 người cầm đầu các lực lượng chống đối đã bị bắt”.

Những ngày tiếp theo 12,13, 14, lực lượng chính phủ vẫn tiếp tục các cuộc lùng bắt những người thuộc lực lượng chông đối.

 Thực chất “cuộc tấn công tái chiếm Huế” của chính phủ là một cuộc hành quân cảnh sát hơn là một chiến dịch quân sự. Các đơn vị thiện chiến như Nhảy dù và Thủy quân lục chiến dồn dập đỗ vào Huế với hàng chục tiểu đoàn trong những ngày này chỉ là thủ đoạn chính trị nhằm hù dọa các lực lượng đấu tranh, và cũng để nói với nhà sư Trí Quang rằng là Mỹ sẽ thực hiện giải pháp chiến tranh đến cùng, không có Quốc hội Lập hiến, không có chế độ Dân chủ, chỉ có chiến thắng Cộng sản, và Phật giáo miền Trung thì cần phải bị tiêu diệt như một viên đá cản đường cần bị lăn xuống hố.

 Ngày 15.6.1966, qua đài phát thanh bí mật “Tiếng Nói Cứu Nguy Phật Giáo,” thượng tọa Thích Trí Quang kêu gọi đồng bào Phật tử cương quyết bảo vệ bàn thờ Phật và kiên trì đường lối đấu tranh bất bạo động. Đài phát thanh bí mật “Tiếng Nói Cứu Nguy Phật Giáo” được tạo tác nên từ một máy phát tuyến do các Phật tử làm việc tại Đài phát thanh Huế lấy cắp được. Đài phát liên tục 24/24. Mục đích là “Làm cho quần chúng biết Phật giáo muốn gì, và dùng áp lực của quần chúng để cản ngăn hành động đàn áp của Thiệu – Kỳ đã được Mỹ bật đèn xanh. Muốn vậy thì tiếng nói và nguyện vọng của  phe đấu tranh phải được hâm nóng va phổ biến rộng rãi” (Hoàng Nguyên Nhuận trả lời phỏng vấn do Quán Như thực hiên – giaodiemonline.com/2013/6).

 Nhưng hành động đàn áp của Thiệu – Kỳ trong chủ trương và sách lược tiêu diệt Phật giáo đấu tranh của Mỹ đến thời điểm này không thể cản ngăn được.

Ngày 16.6.1966, sau khi đã cơ bản thanh toán gần hết các ổ đề kháng của quân ly khai thuộc sư đoàn I, các cánh quân đáng sợ của chính phủ dưới sự điều động của đại tá Nguyễn Ngọc Loan và trung tá Phan Văn Khoa quay trở lại càn quét các biểu hiện tranh đấu bất bạo động của Phật giáo trên các mặt đường và trong các chùa.

Từng đơn vị khoảng một đại đội (100 người) gồm Thủy quân lục chiến, Nhảy dù, Cảnh sát dã chiến tua tủa súng ngắn súng dài, lưỡi lê tuốt trần, khiêng, dùi cui, ma trắc, lựu đạn hóa học, khắp người được che chắn bởi mũ đồng, mặt nạ, áo giáp, giày đinh được tổ chức thành những khối bạo lực trông như những bức tường sẵn sang phun lửa. Có khoảng mấy chục bức tường sẵn sàng phun lửa như thế từ các doanh trại, các trung tâm hành quân, trong đêm khuya, bất thần  tiến ra các trục đường chính – nới có bàn thờ Phật và những tăng ni, phật tử già trẻ, lớn bé đang ngái ngủ mệt mỏi sau hơn mười ngày kiên trì bám mặt đường bảo vệ bàn thờ và kiên định các mục tiêu đấu tranh: Hòa bình, Dân chủ và quyển Tự quyết Dân tộc. Sau lưng các bức tường lửa ấy, còn có  những xe GMC chở đầy các đội viên Biệt chính, cán bộ Xây dựng Nông thôn, Cảnh sát và viên chức của từng địa phương trung thành với chính phủ. Tất cả đều được trang bị vũ khí và phương tiện phòng ngừa chất độc hóa học.

 Khi Lực lượng chính phủ đến sát các địa điểm thi hành nhiệm vụ, những bức tường bạo động chuẩn bị tư thế sẵn sàng phu lửa, những người ngồi trên xe GMC nhanh chóng nhảy xuống mặt đường. Nhiệm vụ của họ là khiêng những bàn thờ để giạt vào hai bên lề đường và trấn áp những người đấu tranh. Bất cứ ai ngoan cố phản kháng sẽ bị còng tay khiêng vất lên xe GMC. Những người giữ bàn thờ nhanh chóng nhận ra mình bị tấn công. Tiếng kêu cứu, tiếng gào thét đả đảo Mỹ – Thiệu – Kỳ, tiếng mõ, tiếng phèn la, tiếng gõ thùng thiếc, soong nồi và tiếng súng thị uy phá tan bầu không khí tĩnh mịch của đêm khuya. Đa phần các nhà hai bên đường phố Huế tức thì mở cửa, người trong nhà chạy ra tiếp trợ cho thân nhân đang phản ứng bất bạo động trong tuyệt vọng. Nhưng không thay đổi được tình thế. Lực lượng tấn công quá đông và quá hung tợn, tàn ác. Tiếng kêu cứu, tiếng gào thét, tiếng phèn la, tiếng mõ, tiếng gõ thùng thiếc và nồi niêu soong chảo và cả tiếng tụng kinh không át được tiếng súng. Những tăng ni, phật tử, trẻ con, người già chỉ được trang bị bởi tư tưởng bất bạo động đã bị xuống sức sau nhiều ngày đêm bảo vệ bàn thờ và mặt đường không đủ sức đương cự với những chiến binh trai trẻ được trang bị những phương tiện chiến tranh từ đầu xuống chân. Cuộc giằng co không cân sức nhanh chóng kết thúc. Hàng ngàn người bị còng tay vứt lên xe. Hàng mấy ngàn người khác bị đấm đá tả tơi phải giải tán.Trên đường phố lúc rạng đông chỉ còn lại rác rưởi và những người lính làm nhiệm vụ quân quản. Đại tá Nguyễn Ngọc Loan và trung tá Phan Văn Khoa đã hoàn thành xuất sắc các chỉ thị từ hai tướng Thiệu – Kỳ.(Theo lời kể của một sĩ quan thân cận của trung tá Phan Văn Khoa).

 Những ngày tiếp theo 17, 18, 19, 20, cảnh sát tiếp tục lùng sục, truy bắt những người lính ly khai và những phần tử kiên định lập trường đấu tranh đang trốn tránh trong các chùa và nhà dân ở các xã vùng ven. Các loa phóng thanh của chính quyền kêu gọi những thủ lãnh tranh đấu đầu hàng và treo giải thưởng cho những ai chỉ điểm. Chủ tịch Lực lượng Tranh thủ Cách mạng Bửu Tôn bị bắt. Chuẩn tướng Phan Văn Nhuận ra trình diện. Trung tướng Nguyễn Chánh Thi bị mời ra khỏi Huế. Nhà sư Trí Quang tiếp tục tuyệt thực. Ngày 21, linh hồn của Phong trào Phật tử đấu tranh miền Trung cũng bị bắt đưa vào Sài Gòn.

 Các thủ lãnh Giáo chức và Sinh viên Phật tử Tranh thủ Cách mạng thì:

       - Hoàng Văn Giàu, Trần Xuân Kiêm, Nguyễn Ngọc Giao và nhiều thủ lãnh phật tử khác trốn thoát, ẩn núp trong dân chúng một thời gian, sau đó về Sài Gòn tá túc rồi làm việc trong Đại học Vạn Hạnh và Tổng vụ Thanh niên Phật giáo. (Hoàng Nguyên Nhuận – giaodiemonline.com/1013/6)

       - Lê Tuyên ra trình diện

       - Nguyễn Đắc Xuân được Mặt trận mời lên chiến khu.

 Các thủ lãnh người của Mặt Trận đấu tranh dưới ngọn cờ Phật giáo :

       - Bảo Cự bị bắt, sau thanh lọc, trở lại đại học tiếp tục đời sinh viên.

       - Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan được cán bộ hoạt động nội thành tổ chức đưa lên núi tiếp tục kháng chiến trong môi trường  mới.

 Riêng Ngô Kha là một trường hợp đặc biệt: Ông không là phật tử, cũng không là người của Mặt Trận. Khi Phong trào Phật giáo 1966 nổ ra ông đang là bí thư của Tỉnh trưởng Quảng Nam (một Đại tá), một loại lính kiểng (do tướng Ngô Du gởi gắm), cư trú và làm việc tại Hội An. Như thường lệ, chiều thứ bảy ông về Huế thăm nhà. Một chiều thứ bảy đầu tháng 6, ông lên đèo Hải Vân gặp chiến đoàn Nguyễn Đại Thức. Ông tình nguyện tham gia chiến đoàn, phụ trách công tác “cổ vũ tinh thần” binh sĩ ly khai. Bản thân ông cũng muốn ly khai khỏi cơ cấu quyền lực quân phiệt Thiệu Kỳ và cuộc chiến tranh của Mỹ. Ông bị bắt cùng với các chiến hữu khi quân Dù và Thủy quân lục chiến của hai ông Thiệu – Kỳ chọc thủng vòng đai phòng thủ của chiến đoàn Nguyễn Đại Thức trên đèo Hải Vân tiến ra Huế. (Ông bị đưa đi giam ở quân lao Phú Quốc 6 tháng. Ra tù, trở về Huế,  nhờ thế lực của Tướng Ngô Du, ông được tiếp tục làm Thầy giáo ở Quốc học). Mấy năm sau, Ngô Kha trở thành ngọn cờ của Phong trào Học sinh, Sinh viên đấu tranh cho Hòa Bình và quyền Tự quyết Dân tộc từ cơ duyên đó.  

 Người Mỹ, hai tướng Thiệu – Kỳ và những người Quốc gia của Mỹ thở phào nhẹ nhỏm. Biến động miền Trung kết thúc. Phong trào Phật giáo Dấn thân bước vào thời kỳ suy thoái.

Nhóm nghiên cứu Lịch sử Phong Trào Đô Thị Huế không tìm thấy tài liệu nào “thống kê chính xác số người chết và bị thương trong chiến dịch” kết thúc Biến Động Miền Trung, “nhưng số người bị bắt giam giữ chờ phân loại gồm khoảng 1000 quân nhân ly khai và 2000 người thuộc các lực lượng dân sự”.

Thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh Phật giáo năm 1966 và cuộc ly khai hụt của quân dân quân khu I, bắt nhốt nhà sư Thích Trí Quang và hàng ngàn phật tử, đồng sự của ông, truy lùng và vô hiệu hóa hang ngàn người khác, một lần nủa Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã đẩy một bộ phận không nhỏ quần chúng về phía Mặt trận Giải phóng và làm tê liệt khả năng chiến đấu của một phần quân lực miền Nam. Cuộc Việt Nam Hóa Chiến Tranh đã thất bại từ lúc chưa băt đầu. 

 Biến Động Miền Trung, hay Phong trào Đấu tranh Phật giáo miền Trung 1966 là đề tài đã thu hút sự quan tâm của nhiều người. Rất nhiều lời nguyền rủa chửi bới, nhiều lời là kết quả của tìm hiểu qua loa, một vài lời  là tâm sự được giải bày bởi người trong cuộc. Nhiều người trong cuộc khác thì buồn rầu chối từ khi được hỏi: “Thôi quên đi”. Tôi kết thúc mấy trang tiếp cận của mình bằng mấy vấn đề cần phải nêu để nhờ bạn đọc giúp tôi tiến gần hơn nửa sự thật lịch sử.

 Sau khi Nguyễn Khánh bị loại bỏ, người Mỹ chọn hai tướng Thiệu, Kỳ cho cuộc chiến tranh chống Cộng nhất định thắng mà họ đã kiên định dấn thân vào từ sau khi loại bỏ Ngô Đình Diêm. Hội nghị Honolulu khẳng định sự chọn lựa ấy.

Trong tình thế đó, chống, hoặc ly khai với Thiệu – Kỳ cũng có nghĩa là chống, và ly khai với Mỹ.

Nguyễn Chánh Thi chống Thiệu – Kỳ là điều có thật. Nhưng Nguyễn Chánh Thi có chống và ly khai với Mỹ không? Đặt câu hỏi như thế này là hoài nghi tiến trình cuả tam đoạn luận trên.

Vấn đề cốt lõi là mục tiêu nào trong sự liên kết giữa Thích Trí Quang và Nguyễn Chánh Thi?

Câu hỏi sau cùng:  Cuộc ly khai do Thích Trí Quang và Nguyễn Chánh Thi phát động là mục tiêu quân sự và chính quyền ly khai, hay chỉ là thủ pháp chính trị trong đường lối đấu tranh vì mục tiêu dân chủ, hòa bình bất bạo đông?

Như chúng ta đã biết, Nguyễn Chánh Thi gắn liền với Mỹ trong những biến cố to lớn của đời ông: Cuộc đảo chánh Ngô Đình Diệm tháng 11 năm 1960, cuộc lật đổ Dương Văn Minh tháng 1 năm 1964, hai cuộc chống đảo chánh tháng 8.1964 và tháng 2.1965, cuộc lật đổ Nguyễn Khánh tháng 2.1965. Sau khi cuộc xung đột Thi – Thiệu Kỳ xẩy ra, một mặt người Mỹ cung cấp phương tiện cho Thiệu Kỳ đánh Thi, một mặt tổ chức dàn xếp để Thi – Kỳ thương lượng nhằm giải quyết xung đột trong hòa giải. Đâu là sự thật trong những hành động hai mặt nay? Cuối cùng Thi bị Thiệu – Kỳ đánh bại, phải ra đi, Mỹ đã cưu mang ông. Những điều này chứng tỏ Mỹ muốn loại bỏ Thi nhưng chưa đến độ tuyệt tình như đối với Ngô Đình Diệm. Như thế, trong Biến Động Miền Trung, Thi chống Thiệu – Kỳ  là chính, nhưng chống trong sách lược của Phật giáo miền Trung: vừa đủ để làm áp lực với Mỹ, chưa đến mức độ ly khai. Bởi vì hơn ai hết Thi hiểu rằng vào thời điểm đó (1966), với địa lý miền Trung, ly khai với Thiệu – Kỳ là ly khai với Mỹ, mà ly khai với Mỹ thì chỉ có chết: Chết vì bị Mỹ giết. Chết vì hoàn toàn không có điều kiện và khả năng ly khai tự lập (cơm áo gạo tiền và súng đạn đều nằm trong tay Mỹ). Trong trường hợp đầu hàng Cộng sản thì hậu quả là một cái chết nhục nhã lâu dài. Thi biết và đã không làm như thế. Người Mỹ biết Thi không làm như thế nên cưu mang ông phần đời còn lại.

Như chúng ta đã biết; Thích Trí Quang và Mỹ có mối quan hệ cực kỳ phức tạp. Trong cuộc xung đột đưa đến chiến tranh giữa Mỹ và Cộng sản miền Bắc, Thích Trí Quang và Phật giáo miền Trung của ông muốn tìm hướng đi riêng. Không Cộng sản, cũng không Mỹ. Ông và Phật giáo chống độc tài Ngô Đình Diệm và tưởng có thể là đồng minh của Mỹ trong công cuộc ngăn chặn chủ nghĩa Cộng Sản bằng chế độ dân chủ, bằng xã hội công bằng,  phát triển trong tự do, và đặc biệt bằng con đường hòa bình, hòa giải giữa hai ý thức hệ (Tự do – Cộng sản), giữa hai miền (Nam – Bắc), giữa hai thế giới (Tư bản – Cộng sản). Tháng Tám năm 1963, nhà sư Thích Trí Quang muốn có đủ thì giờ để nói cho người Mỹ hiểu những điều đó nên ông chọn tị nạn tại Tòa Đại sứ (Mỹ) sau khi trốn thoát khỏi trại giam của Ngô Đình Nhu ở Rạch Cát.

Cabot Lodge (và những người Mỹ có thẩm quyền khác) lịch sự, chịu khó nghe ông nói rất nhiều lần, nhưng không hiểu hoặc hiểu một cách lệch lạc, lờ mờ, thậm chí nếu có hiểu chính xác những điều ông nói cũng chẳng bao giờ là đồng minh của ông. Bởi con đường của Mỹ là chiến thắng Cộng sản bằng bạo lực quân sự, chứ không phải là chế độ dân chủ, là hòa bình, hòa giải của dân tộc Việt Nam.

Đai sứ Mỹ, Cabot Lodge, cố gắng thuyết phục Thích Trí Quang và Phật giáo đi theo con đường chiến tranh của mình. Thích Trí Quang và Phật giáo miền Trung kiên trì kêu gọi Mỹ ủng hộ nhân dân Việt Nam xây dựng chế độ dân chủ trong quan hệ đồng minh chứ không trong quan hệ thống trị –  chư hầu.

Cuộc giằng co thuyết phục – kêu gọi lẫn nhau kéo dài từ cuối hè 1963 đến cuối xuân 1966. Người Mỹ tiếp tục đi tìm người hùng cho giải pháp chiến tranh. Phật giáo kiên trì đấu tranh dân chủ và quyền dân tộc tự quyết theo con đường hòa bình và phương pháp bất bạo động. Xem ra hai con đường không thể nhập làm một trong cuộc đương đầu với Cộng sản miền Bắc và Mặt trận Giải phóng miền Nam. 

Cũng như Cộng sản miền Bắc, Mỹ và cộng đồng Thiên Chúa giáo Việt Nam và quốc tế khẳng định chỉ có một con đường, nhưng ngược chiều: chiến tranh.

Thích Trí Quang và Phật giáo miền Trung lý luận rằng trong thế giới vô thường, đã có 1, ắc có 2, có 3. Nhưng vào thời điểm này, trên thế giới này, trong đất nước này, Phật giáo là con đường thứ ba đó. Con đường thứ ba có sứ mệnh hóa giải sự ngược chiều sinh tử, hủy diệt dân tộc và nhân loại của hai con đường kia.

Cuộc đấu tranh của Phật giáo từ chống độc tài Ngô Đình Diệm qua độc tài Nguyễn Khánh, độc tài Trần Văn Hương đến độc tài Kỳ –  Thiệu – Mỹ là cả một cuộc hành trình. Đó là cuộc hành trình đầy khổ nạn giữa rất nhiều lằn đạn.

 Trong cuộc đương đầu với chế độ Ngô Đình Diệm, Phật giáo miền Trung nhanh chóng nhận được sự đồng tình hiệp lực của tất cả phật tử và nhân dân miền Nam (Quân đôi, Trí thức, Sinh viên, Học sinh, Đại Việt, Quốc Dân đảng, Cao Đài, Hòa Hảo, ngoại trừ cộng đồng Thiên Chúa giáo). Phải mất một thời gian khá lâu sau khi Diệm đổ, nhà sư Thích Trí Quang và Phật giáo miền Trung mới nhận ra rằng tuy đồng hành, nhưng người Mỹ không là đồng minh trong các mục tiêu tự do và bình đẳng tôn giáo. Và nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy Mỹ loại trừ chế độ gia đình trị là bởi Ngô Đình Nhu dám đem chuyện hiệp thương với miền Bắc làm chantage với Mỹ.( theo Hoàng Linh Đỗ Mậu, sđd).

 Tuy nhiên, những cuộc đấu tranh vì mục tiêu dân chủ sau Diệm, đặc biệt là cuộc đấu tranh chống Thiệu – Kỳ lần này, Thích Trí Quang và Phật giáo miền Trung gần như đơn độc: Phật giáo miền Nam (của Mai Thọ Truyền) đứng ngoài. Phật giáo miền Bắc  di cư (của Thích Tâm Châu) ngả về phía Thiệu Kỳ. Cao Đài, Hòa hảo dửng dưng. Phật giáo Quốc tế can ngăn, phủ nhận. Lực lương Công giáo đấu tranh, báo chí Mỹ và các thế lực Công giáo quốc tế chống phá quyết liệt. Các tướng trẻ trong quân đội, đảng phái, một bộ phận trí thức và sinh viên ủng hộ chính phủ. Và người Mỹ từng bước hiện nguyên hình là cha nuôi, là ông chủ của Thiệu Kỳ trong cuộc chiến tranh chống Cộng và cuộc đánh phá viên đá cản đường Thích Trí Quang và Phật giáo miền Trung. Về phía Cộng sản vừa là kẻ đồng hành nguy hiểm, vừa là đối thủ “ý thức hệ” tiềm ẩn của Thích Trí Quang và Phật tử tầng lớp trên.

Trước tình hình đó, Thích Trí Quang và Phật giáo miền Trung có một người đồng hành, từng bước trở thành đồng minh, đồng đạo là Nguyễn Chánh Thi và những quân – dân – cán – chính  miền Trung ủng hộ ông chống lại Thiệu – Kỳ.

 Nguyễn Chánh Thi là tín đồ Phật giáo, người Huế, chống độc tài Ngô Đình Diệm trong ý thức và khát vọng tự do dân chủ. Ông rất gần nhà sư Thích Trí Quang và Phật giáo miền Trung trong những điểm này.

Nguyễn Chánh Thi vốn là một người lính, một tướng quân, sự nghiệp và sinh mệnh của ông trong một thời gian dài gắn liền với hai cuộc chiến tranh không chính đáng của Pháp và Mỹ. Ông cách xa Thích Trí Quang và Phật giáo trong những điểm này.

Nhưng, Nguyễn Chánh Thi còn là người Việt Nam, là Phật tử, trong sâu thẳm ông cũng có chút ít lòng từ bi, khát vọng hòa bình và nhu cầu nối kết dân tộc.

Cái cơ duyên để Thích Trí Quang và Nguyễn Chánh Thi cộng nghiệp là trong quảng thời gian hai năm, Nguyễn Chánh Thi trở về miền Trung –  Huế với chức vụ cầm đầu quân đội và chính quyền. Một nhà tu khát khao con đường dân chủ, hòa binh, hòa giải dân tộc, và một tướng quân mệt mỏi, giằng xé, bất mãn  trong cuộc chiến tranh khủng khiếp của Mỹ gặp nhau. Họ thu hẹp các khoảng cách, để rồi xích lại gần hơn trên con đưòng thứ Ba của Phật giáo. Cuộc ký kết Honolulu giữa Thần chiến tranh Mỹ và Thiệu – Kỳ quân phiệt –  tham nhũng chỉ là nguyên nhân gần.

 Xét về tất cả các khía cạnh, không thể kết hợp ly khai và con đường thứ Ba được. Bởi đó là hai con đường, hai giải pháp mâu thuẫn, ngược chiều.

Ly khai là tranh chấp quyền lực là bạo động, là con đường chết trong tương quan lực lượng và vị trí địa lý miền Trung vào thời điểm đó như đã nhận định ở trên.

Con đường thứ Ba là con đường đấu tranh dân chủ, là bất bạo đông, là hòa bình, là con đường sống trong những xã hội đa nguyên và dân chủ.

Một khi con đường thứ ba kết hợp với “ky khai” là con đường thứ ba đi vào chỗ chết. Người Mỹ chờ cơ hội này để đánh Thích Trí Quang và Phật giáo miền Trung một lần cho dứt điểm.

Vậy thì có một chủ trương, một kế hoạch ly khai thật hay chỉ là những động thái, những tuyên ngôn, những lời hô hào cốt để làm áp lực với Mỹ?

Như mọi người đều thấy: Có tuyên bố ly khai từ biệt khu Quảng Đà của Đại tá Đàm Quang Yêu, từ Tòa Thị chính Đà Nẳng của Bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn. Có sự chuyển quân bằng phương tiện Mỹ của Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Có sự dàn quân, có đánh nhau làm mấy trăm ngươi chết và bị thương trong những ngày sôi động tháng Năm tại Đà Nẵng. Có tổ chức quân nhân ly khai của sư đoàn I tham gia Lực lượng Tranh thủ Cách mạng.Có Lực lượng Sinh viên Quyết tử. Có vụ tấn công Tướng Huỳnh văn Cao tại phi trường Tây Lộc. Có chiến đoàn Nguyễn Đại Thức. Có các vụ đốt phá phòng Thông tin Hoa Kỳ và tòa Lãnh sự Mỹ tại Huế. Những sự kiện bạo động này chưa đủ để kết luận Biến Động Miền Trung là một cuộc ly khai đúng nghĩa. Bởi một cuộc ly khai đúng nghĩa bao giờ cũng có hai điều kiện quân sự và kinh tế làm xương sống cho chính quyền ly khai. Phải có một hậu phương lớn với khả năng chính trị và tiềm lực kinh tế dồi dào, một chiến khu kiên cố và hiểm trở để tính kế lâu dài. Tại miền Trung - Huế vào thời điểm đó biển trời, rừng núi, nông thôn đều do các bên lâm chiến ( Mỹ, Thiệu Kỳ và Cộng sản) chiếm đóng. Lực lượng thứ ba lấy gì để ly khai? Trong lịch sử Việt Nam vào nửa sau thế kỷ XVI có cuộc ly khai của họ Mạc ở Cao Bằng và cuộc ly khai của chúa Nguyễn ở Thuận Quảng . Miền Trung Huế, vào thời điểm 1966 đối với trung tâm quyền lực Mỹ – Thiệu – Kỳ ở Sài Gòn, hoàn toàn không giống như Thuận Quảng, Cao Bằng đối với chúa Trịnh vua Lê ở Tây đô và Thăng Long vào thế kỷ XVI – XVII. Tại Huế, trong mấy tháng xuân hè năm 1966, nhà sư Thích Trí Quang vẫn tiếp tục đấu tranh bất bạo động với những tăng ni, phật tử của mình; Nguyễn Chánh Thi không kêu gọi sự trợ giúp của cường quốc thứ ba, không điều binh khiển tướng trên chiến tuyến, cũng không đi lập chiến khu. Ông chỉ tuyên bố thế này thế nọ trước báo chí. Ông còn đi gặp tướng Kỳ theo sự dàn xếp của Mỹ. Ông chỉ đôi lần xuất hiện trước quần chúng mít tin, biểu tình để bày tỏ lập trường đứng về phía nhân dân.

Nguyện vọng to lớn nhất, sâu thẳm nhất của nhân dân hai miền Nam Bắc vào thời điểm đó là Hòa bình, quyền Tự quyết Dân tộc và sự thống nhất đất nước.

Cuộc “ly khai” trong Biến Động Miền Trung đích thật  là cuộc ly khai giả, là một thủ pháp chính trị. Mục đích thực sự của “ly khai” là làm áp lực để Mỹ ủng hộ nhân dân Việt Nam, từ bỏ Thiệu – Kỳ và con đường chiến tranh mà nhà sư Thích Trí Quang và Phật giáo miền Trung nhận định rằng đó là con đường xấu xa nhất, tàn ác nhất, người Mỹ nhất định thua nếu không từ bỏ.

Ba mục tiêu chính của phong trào Phật giáo miền Trung 1966 là chế độ dân chủ, quyền tự quyết dân tộc và hòa bình. Cả ba mục tiêu này đều trực diện đâu tranh với Mỹ. Mà trực diện đấu tranh với Mỹ trong tình thế miền Nam năm 1966 thì thua là tất nhiên. Có điều thua như thế nào là vấn đề cần thảo luận.

Trở lại cuộc đấu tranh chống Hiến chương Vũng Tàu và độc tài quân phiệt Nguyễn Khánh cuối năm 1964: Cái làm mất danh dự (từ và ý của hòa thượng Thích Tịnh Khiết) của Phật giáo biểu hiện qua việc thành lập và đẩy mạnh các hoạt động của Hội đồng Nhân dân Cứu quốc, đặc biệt Hội đồng Nhân dân Cứu quốc ở các tỉnh phía nam của miền Trung, nơi mà khuynh hướng “Đỏ”trong Hội đồng mạnh hơn khuynh hướng Phật. Hội đồng Nhân dân Cứu quốc là một thứ chính quyền. Trong tình thế lúc bấy giờ chính quyền là bạo động. Mà bạo động là mâu thuẫn, là đi ngược lại đường lối chủ trương bất bạo động của Phật giáo. Các vị lãnh đạo cao nhất của Phật giáo miền Trung lúc bấy giờ đã kịp thời nhận ra sai lầm đó nên thay vì ra lệnh tổ chức kỷ niệm một năm ngày chế độ độc tài Ngô Đình Diệm bị lật đổ –  Cách mạng thành công; hòa thượng Thích Tịnh Khiết và thượng tọa Thích Trí Quang đã nhân danh Giáo hội Phật giáo gởi Thông điệp và Thông cáo nhắc nhở Phật giáo đồ: “Vì danh dự của Phật giáo mà noi gương tinh thần Thích Quảng Đức, kiên trì đường lối đấu tranh bất bạo động”. Từ 1.11.1964 đến 13.3.1966 (ngày thành lập Lực lượng Tranh thủ Cách mạng) là gần tròn 14 tháng rưởi, các nhà lãnh đạo Phật giáo miền Trung đã quên bài học Hội đồng Nhân dân Cứu quốc, đã vội vã liên kết với Nguyễn Chánh Thi làm cuộc ly khai giả. Cuộc đấu tranh bất bạo động thật của nhà sư Thích Trí Quang song hành cùng cuộc ly khai giả của Tướng quân Nguyễn Chánh Thi đã tạo cơ hội vàng cho Mỹ – Thiệu – Kỳ điều động binh mã tiến hành cuộc đàn áp đẫm máu như chúng ta đã thấy.

Giả định rằng các ông Nguyễn Chánh Thi, Phan Xuân Nhuận, Tôn Thất Đính, Nguyễn Văn Mẫn, Đàm Quang Yêu, và các sĩ quan, binh sĩ, công chức quân khu I nhớ bài học Vũ Văn Mẫu (tháng 8. 1963 phản đối kế  hoạch nước lũ của Ngô Đình Nhu) đồng loạt cạo đầu đứng vào hàng ngũ đấu tranh bất bạo động của ngài Thích Trí Quang thì chẳng biết thế sự sẽ ngã ngũ như thế nào. Cho dù có thua cũng là một cái thua ngoạn mục, một cái thua vô tiền khoáng hậu. Tuy nhiên giả định vẫn là giả định, là ý kiến nhanh nhạy của kẻ  ngoài cuộc, của người đời sau.

 Tôi là kẻ ngoài cuộc. Nhận định sau đây được viết ra năm 2015, cứ xem là của người đời sau: Song song với những diễn biến quân sự và chính trị trên cả hai miền Nam Bắc, cuộc dấn thân của Phật giáo miền Trung năm 1966 đã góp phần quan trọng làm thay đổi nhận thức của chính giới Hoa Kỳ, và làm tăng trưởng phong trào hòa bình (phản chiến) tại Mỹ và trên thế giới.

Lấy mốc điểm từ Hội nghị Honolulu để suy luận: Hội nghị Honolulu kết thúc ngày 8 tháng 2 năm 1966. Phó tổng thống Humphreys cùng phái đoàn Thiệu – Kỳ đến Sài Gòn tiếp tục đàm phán về cách thức áp dụng chính sách chung Mỹ – Việt (Đoàn Thêm – VTN 1966 tr 51). Trong thời gian lưu trú làm việc với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và cả thời gian gần sau khi về Mỹ, người thay mặt tổng thống Johnson đã quan tâm đặc biệt đến tình hình miền Nam, cái tình hình làm thay đổi nhận thức của ông. Ngày 28.3.1966 (48 ngày sau khi Hội nghị Honolulu kết thúc), phó Tổng thống Humphreys đã tuyên bố với phóng viên Newsweek như sau:

 “Chỉ có trời mới lật ngược được thế cờ ở Việt Nam, là một xứ có quá nhiều rắc rối. Mỹ sẵn sàng xét lại đường lối. Sẵn sàng thừa nhận Việt Nam không liên kết. Và Mỹ có thể chấp nhận cuộc tuyển cử tự do dân chủ dù Cộng sản thắng trong cuộc tuyển cử đó” (Đoàn Thêm – VTN 1966, tr 52).

 Rõ ràng cuộc đấu tranh xuân hè 1966 của Phật giáo miền Trung đã được phản ảnh đầy đủ trong những nhận định của phó tổng thống Hoa Kỳ Humphreys, và chắc chắn cuộc đấu tranh đó đã gây chú ý đặc biệt cho giới trí thức và phong trào phản chiến Mỹ. Bằng chứng là ngày 2.5.1966, theo lời mời của Đại học Cornell ở Ithaca, Newyork, “Đại đức Thích Nhất Hạnh do tổ chức Hòa Bình Mỹ mời sang Hoa Kỳ, tuyên bố chủ trương 5 điểm của Phật giáo: Chính phủ Nguyễn Cao Kỳ từ chức, quân đội Mỹ rút lui, ngưng oanh tạc Bắc Việt, Mỹ phải giúp lập chánh thể dân chủ va tái thiết miền Nam không điều kiện” (ĐT,VTN,1966).

Ông Đoàn Thêm là một viên chức cao cấp đã từng làm việc trong văn phòng phủ tổng thống Ngô Đình Diệm. Đến năm 1966, ông vẫn đứng trên lập trường của Việt Nam Cộng Hòa để ghi chép Việc Từng Ngày. Do vậy Việc Từng Ngày có chuyện “Đại đức Thích Nhất Hạnh được mời sang Hoa Kỳ…”, mà không có chuyện nhà sư Thích Nhất Hạnh bị Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia Nguyễn Văn Thiệu cấm về lại Việt Nam. Sau lời tuyên bố Hòa Bình 5 điểm của Phật giáo, nhà sư Thích Nhất Hạnh phải lưu vong trong cõi ta bà, nhưng không ngừng đấu tranh cho Hòa bình, Hòa giải, Hòa hợp dân tộc và nhân loại theo lập trường của Lực lượng thứ Ba và tinh hoa của Đạo Bụt. Cuộc đấu tranh của ông nằm ngoài quỹ đạo của phong trào Hòa Bình do đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Ông trở thành vật trở ngại đáng ghét, là “tên Việt gian đáng nguyền rủa” của các Hội Việt Kiều yêu nước bên Mỹ và châu Âu từ đó, và mãi cho đến nhiều năm sau khi cuộc chiến tranh chống Cộng của Mỹ và cuộc kháng chiến chống Mỹ –  Ngụy của Cộng Sản kết thúc. Người Việt Nam Quốc gia cũng nguyền rủa Thích Nhất Hạnh, Thích Trí Quang và Phật giáo miền Trung, vì cho họ là những tên ngụy hòa, tay sai Cộng Sản, thậm chí còn là Cộng Sản nằm vùng, hay công cụ của CIA.