Đìu Hiu Pháp Ngữ

Trương Quang Đệ

Ngày Pháp ngữ 20 tháng 3 hàng năm gợi lên những cảm xúc khó tả. Vui hay buồn hay dửng dưng mặc kệ sự đời? Môt số câu hỏi luôn đặt ra cho những ai quan tâm đến Pháp ngữ: Nước ta tham gia Khối Pháp ngữ để làm gì? Có lợi ích gì trong việc học tiếng Pháp? Nên giữ gìn tiếng Pháp và văn hóa Pháp ở mức độ nào?

Khối Pháp ngữ có tên chính thức, hình như do Việt Nam đề xuất: Cộng đồng các quốc gia có chung việc sử dụng tiếng Pháp (Communauté des pays ayant en commun l’usage du franḉais). Vào thời điểm Việt Nam đề xuất tên gọi này, giới chức trong nước thuộc chính quyền và Đảng cộng sản hầu hết biết tiếng Pháp và giới ngoại giao còn dùng tiếng Pháp trong các giao dịch quốc tế. Trong cùng thời gian đó việc học tiếng Pháp trong các trường phổ thông trung học, phổ thông cơ sở khá phổ biến, nhất là ở các trường thuộc Miền Nam cũ. Thế rồi mọi sự rơi rụng dần: cho đến nay hầu như quan chức chính quyền, các ngành chức năng không còn ai biết tiếng Pháp nữa. Tìm ra một vị lãnh đạo đi dự Thượng Đỉnh Pháp ngữ hay các cuộc tiếp xúc chuyên môn là chuyện quá khả năng của đất nước. Đành phải làm chuyện tréo ngoe là nói tiếng Việt rồi có người phiên dịch đi kèm. Việc học tiếng Pháp trong các trường phổ thông suy giảm nhanh chóng, hiện chỉ có hơn một ngàn học sinh học tiếng Pháp trên toàn quốc, trong khi ở Hàn Quốc, một nước không thuộc cộng đồng Pháp ngữ, số học sinh học tiếng Pháp cò đến mấy trăm ngàn.

Trong cộng đồng Pháp ngũ, vị thế Việt Nam như thế nào? Trước khi xem xét câu hỏi này ta điểm qua sắc thái các quốc gia trong cộng đồng và xếp loại các quốc gia theo từng nhóm có sắc thái đặc tù. Cộng đống Pháp ngữ hiện nay có thể chia làm năm nhóm.

Nhóm I gồm các quốc gia hay vùng lãnh thổ có tiếng mẹ đẻ là tiếng Pháp: Pháp và các lãnh thổ hải ngoại, Walonie (Bỉ), Genève-Lausane (Thụy sỹ), Québec (Canada).

Nhóm II gồm các quốc gia Tây Phi thuộc đia cũ có tiếng mẹ đẻ thuộc từng bộ lạc nên phải dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính thức cho hoạt động ngoại giao, hành chính, văn hóa giáo dục và truyền thông.

Nhóm III gồm chủ yếu các quốc gia Trung Cận Đông và Bắc Phi. Các quốc gia này có tiếng mẹ đẻ làm ngôn ngữ chính thức nhưng tiếng Pháp vẫn có ảnh hưởng mạnh trong hoạt động ngoại giao, văn hóa giáo dục, báo chí truyền thông, sáng tác văn học nghệ thuật, nghiên cứu khoa học.

Nhóm IV gồm các quốc gia như Campuchia, Lào và Việt Nam chịu ảnh hưởng tiếng Pháp và văn hóa Pháp trong quá khứ, hiện tại  giữ quan hệ chắt chẽ với Pháp nhưng tiếng Pháp không còn vai trò gì đáng kể.

Nhóm V gồm các quốc gia Đông Âu như Bulgarie, Roumanie…và một quốc gia thuộc Liên xô cũ là Moldavie. Các quốc gia này vừa thoát ảnh hưởng Nga nhưng không muốn rơi vào ảnh hưởng Mỹ nên chọn việc gia nhập một cộng đồng “vô thưởng vô phạt” chỉ có ý nghĩa văn hóa. Nhóm này còn có một trường hợp đặc biệt, đó là Ai Cập. Quốc gia này vào những năm cuối 60 đầu 70 thế kỷ trước muốn thoát khỏi ảnh hưởng Anh-Mỹ nên gia nhập khối  Pháp ngữ, dầu tiếng Anh vẫn là chủ đạo trong mọi hoạt động đối ngoại và văn hóa.

Nhìn vào sự phân loại trên ta thấy vị thế của Việt Nam khá mờ nhạt và câu hỏi ta thuộc vào khối Pháp ngữ để làm gì chỉ có một cách giải đáp ngắn gọn: Mục tiêu duy nhất là đa dạng hóa, đa phương hóa trong chính sách đối ngoại, thế thôi; còn để làm gì thì chưa ai nghĩ đến. Cũng y như thấy người ta đi chùa mình cũng đi theo, còn đi chùa làm gì thì tính sau.

Con đường trí tuệ của Việt Nam vốn theo hướng dễ dãi, cứ đường mòn mà đi, cứ theo các mẫu đúc sẵn mà suy nghĩ.  Ngày trước thì lấy Liiên xô, rung Quốc làm chuẩn; nay thì có vẻ muốn nhìn sang Singapore, Nhật, Mỹ. Thế hệ tôi đang yên bình học trong chương trình Hoàng Xuân Hãn, bỗng đùng một cái đổi sang “hệ Liên xô” chín lớp, rồi mười lớp. Cho điểm trên 10 hay 20 chuyển sang 5 bậc. Cái lộn xộn đó đến nay vẫn  ám ảnh ngành giáo dục. Có vẻ như đang tiến hành dự án Colombia mà ai cũng ngán ngẫm.

Trở lại với tiếng Pháp. Hiện nay chủ trương về ngoại ngữ của nhà nước vẫn chưa có gì định hình dứt khoát, đột phá. Trong thực tế toàn quốc đang đặt tiếng Anh làm ngoại ngữ số 1, có người đề nghị nâng tiếng Anh thành ngôn ngữ chính thức thứ hai, sau tiếng Việt. Đó là những việc làm và những suy nghĩ đúng đắn đáng khích lệ. Tuy nhiên việc xếp tiếng Pháp vào hàng ngũ những ngôn ngữ loại hai ngang với tiếng Hàn, Nhật, Đức … sau tiếng Trung và tiếng Nga…là điều không hợp lý trên nhiều phương diện.

Trong nền tảng văn hóa nước ta, chữ Hán cổ và tiếng Pháp thuộc về di sản quí giá cần gìn giữ. Tầm quan trọng của chữ Hán (không phải tiếng Hoa hiện đại) ai cũng thấy rõ, đó là cội nguồn của bao bộ sử ký đồ sộ , những công trình khảo cứu bách khoa của Lê Quí Đôn, Phan Huy Chú, của bao áng văn chương bất hủ.

Gia tài tiếng Pháp xem ra đồ sộ không kém. Đó là cội nguồn của các công trình nghiên cứu Đàng Trong, Đàng Ngoài của các vị thừa sai, giáo sỹ, thương gia, giới quân sự, giới khoa học, giới hành chính , tòa án và đông đảo những kẻ phiêu lưu đủ màu sắc. Gia tài đó hiện diện trong những thư viện lơn hiện nay ít người ngó ngàng tới trong nước và hiện diện nhiều hơn trong các trung tâm lưu trữ Pháp. Tài liệu bằng tiếng Pháp do chính quyền thuộc địa để lại bao trum hết các lĩnh vực hoạt động xã hội, các ngành nghề đủ loại từ việc xây dựng đền chùa đến việc quản lý rừng, sông suối..

Gần đây có việc tranh cãi về dự án nước mắm, có người đưa lên mạng một tài liệu thời Pháp thuộc xử lý chuyện nước mắm như thế nào đầu thế kỷ 20. Những người phụ trách Festival Huế muốn dàn dựng cảnh Tế Nam Giao phải dựa vào tạp chí BAVH (Bulletin des Amis du vieux Húe), tức Đô Thành Hiếu Cổ của Cha Cadìere. Việc gìn giữ di sản cần được quan tâm một cách chân thành và khoa học.

Về chữ Hán tôi đã có lời bàn cách đây ít lâu. Trong bài này tôi chỉ nói về tiếng Pháp. Không nhất thiết phải đưa tiếng Pháp lên ngang với tiếng Anh hay nâng tầm phổ cập rộng lớn hơn mà chỉ vận dụng việc đào tạo tiếng Pháp vào một số trọng điểm. Ở cấp độ lãnh đạo nên có một Phó Chủ Tịch nước, một Phó Thủ tướng thạo tiếng Pháp. Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Giáo dục cần phải biết tiếng Pháp. Hiện nay sinh viên tốt nghiệp ngành Lịch sử không biết chữ Hán cũng không biết tiếng Pháp. Thử hỏi họ sẽ nghiên cứu cái gì, ở đâu. Nhiều người làm luận văn về văn học Pháp mà không biết tiếng Pháp, thế mà cũng trót lọt xong xuôi. Ngẫm thế biết chất lượng đại học của ta quá thấp, đó là do tình dễ dãi trong đào tạo, một khuyết tật thâm căn cố đế. Theo tôi, ngành sử buộc sinh viên phải học chữ Hán và tiếng Pháp. Sinh viên học văn học nước ngoài phải học qua ngoại ngữ.  Trước1 mắt chỉ làm được như vậy thôi. Về lâu dài, nếu có tư duy đột phá kiểu Lý Quang Diệu , có thể nghĩ đến một qui chế Pháp ngữ đầy đủ hơn, ngõ hầu làm cho ta có một nền văn hóa vững mạnh đối phó được với ngọn gió độc hại bạo tàn đến từ Phương Bắc.

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 14-4-19