talawas 3-3-06

Những chuyến lữ hành
của triết gia Trần Đức Thảo

Thái Vũ

 

Đọc báo Tiền phong Chủ nhật số 46, ngày 12/11/2006, tôi rất mừng khi thấy báo có đăng bài “Số phận di cảo triết học của triết gia lữ hành Trần Đức Thảo”. Mừng nhưng không vui vì chính “di cảo” của Thầy cũng lại là một cuộc “lữ hành” chưa định nơi trú ngụ.
 

Tất nhiên, thầy giáo nào lại không có học trò, như chính cụ Khổng Tử có đến 3.000 người, nhưng người được theo cụ nhiều nhất có lẽ là thầy Tử Lộ. Với cá nhân tôi, Thái Vũ tôi được gần Thầy từ năm 1955, năm thứ 3 Đại học Sư phạm Văn khoa đến năm 1989 khi Thầy được Chính phủ Việt Nam cho phép và trợ cấp qua Pháp ba tháng để hoàn tất 4 chương cuối cùng của một soạn thảo công trình triết học.

 

Vô Sài Gòn, lúc đầu Thầy ở tầng 2 của khách sạn Bến Nghé đường Nguyễn Trung Trực, Quận 1, được sự quan tâm giúp đỡ của Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh, theo tôi được biết trực tiếp là ông Trần Bạch Đằng. Năm 1986, nước Việt Nam đang “đổi mới”, bước đầu đi vào “kinh tế thị trường” nên báo giới - nhất là tờ Văn nghệ của Hội Nhà văn – cũng thoải mái hơn. Trên bàn Thầy luôn có Tạp chí Cộng sản số mới nhất, còn các số báo Văn nghệ của Hội Nhà văn thì tôi cho Thầy mượn đọc vì có mấy truyện ngắn “đổi mới” đang gây xôn xao dư luận…

 

Cho nên xin cứ nói rõ: Tôi là người học trò duy nhất từ năm 1955 được thầy tặng cuốn Phénomélogie et le Marxisme dialectique, NXB Minh Tân in tại Pháp, bìa mỏng màu xám nhạt và năm 1988 cuốn Vấn đề con người… Tôi đã luôn may mắn được gần Thầy, nhất là khi Thầy ở trong ngôi biệt thự số 21 phố Hàng Chuối, không xa nơi tôi ở 26 phố Lò Đúc, có một ngách nhỏ thông qua Hàng Chuối. Ngôi biệt thự này có một tầng trên, tất cả đều được Bộ Giáo dục cấp cho các giáo sư dạy đại học, như các thầy Đào Duy Anh, thầy Cao Xuân Huy thân sinh bạn Cao Xuân Hạo. Thầy Trần Đức Thảo ở tầng trên, phía sau là dãy nhà bếp, cầu thang xây phía ngoài. Cô Nguyễn Thị Nhất, vợ thầy, cũng từ Pháp về, biên soạn sách giáo khoa vỡ lòng, có lần xuống bếp, trượt cầu thang ngã, bị sẩy thai… Chuyện buồn đó ai cũng biết.

 

Như vậy, tính từ năm 1955 thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đến cuối năm 1989, thời nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, khi Thầy vô Sài Gòn, tuy cách quãng, tôi đã có quan hệ bên Thầy gần 40 năm. Tôi có thể chia ra làm 3 giai đoạn như sau:


I. Triết gia Trần Đức Thảo với Hà Nội từ năm 1955
 

Những năm đầu trong kháng chiến chống Pháp ở chiến trường Liên khu 5 (cũ), vốn là học sinh nhớ nhà, tôi và một số bạn thường hát bài “Ngày về” của nhạc sĩ Hoàng Giác (người Hà Nội) với câu đầu “Tung cánh chim tìm về tổ ấm”. Ở Pháp hơn 20 năm, học và thành tài - từng tranh luận với nhà văn và triết gia J. P. Sartre về “chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa hiện sinh” - hẳn triết gia Trần Đức Thảo cũng đã bao lần mong ước được trở về tổ ấm quê hương đất nước Việt Nam.

 

Điểm nổi bật nữa là giữa thủ đô Paris hoa lệ của nước Pháp, không phải là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, ông lại là người bảo vệ chủ nghĩa Mác một cách trung thực và thành tâm, không a-dua trong nhận thức độc lập của mình. Từ năm 1955 ông về Hà Nội và dạy triết học cao cấp ở trường Đại học Sư phạm Văn khoa (cho hai lớp Văn và Sử). Thầy đi vào triết học như đi tìm cái Đẹp trong mơ, như nước đại dương kết giọt chốn không bờ, như giữa mênh mông sa mạc mà mây trời không chiếu ánh. Người có lòng nhân mà tìm không ra cõi thiện. Thầy đang suy tư giữa Hà Nội mới giải phóng, lớp cử nhân trường Đại học Sư phạm Văn khoa vừa tốt nghiệp khoá đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào tháng 6/1956, thì bài báo “Trăm hoa đua nở” của Chu Dương từ bên Trung Quốc tràn qua, tiếp đến vào tháng 8/1956 xuất hiện tập Giai phẩm mùa Thu của nhóm Nguyễn Hữu Đang, rồi qua tháng 9, số 1 và số 2 tờ Nhân văn… Và tháng 10 năm 1956, trên số 3 tờ Nhân văn xuất hiện bài báo “Nỗ lực phát triển tự do dân chủ” của GS Trần Đức Thảo. Thầy ơi, thầy đã suy tư từ hạt nhân duy lý của Hégel đến “vấn đề con người” và “sự hình thành con người”, nhưng từ năm 1956, phải chăng thầy như Prométhée thần thoại mang ngọn lửa về cho nhân loại đã bị nạn?

 

Ông Hà Xuân Trường, người lãnh đạo ngành văn hoá tư tưởng, phụ trách Tạp chí Cộng sản nhận được thư trình bày của giáo sư Trần Đức Thảo, về “nguyên nhân tham gia Nhân văn”: “Anh hiểu Nhân văn không giống như nhiều người hiểu, hơn nữa chung quanh ‘vấn đề Nhân văn’ anh thấy có nhiều điều xuyên tạc, còn anh – như anh tâm sự - lại muốn bảo vệ uy tín của Đảng và Chính phủ.” Chính Hà Xuân Trường đã nhìn nhận: “Trần Đức Thảo là nhà mác-xít kiên định, một người cộng sản ngoài Đảng Cộng sản, anh phê phán tư duy siêu hình của Stalin, của Mao Trạch Đông, nhưng anh cũng có chịu ảnh hưởng Stalinít– Maoít…”

 

Trường hợp GS Trần Đức Thảo tham gia viết bài cho tờ Nhân văn là như vậy. Nhưng đâu chỉ riêng ông, ở nhóm đại học còn có GS Đào Duy Anh, GS Nguyễn Mạnh Tường, GS Trương Tửu, chưa nói đến các học trò khoa Văn vừa tốt nghiệp khoá đầu. Nói lan ra thì cả các bậc đàn anh, các nhà văn kỳ cựu từ trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Nguyễn Tuân, Văn Cao và Nguyễn Huy Tưởng…, mấy ai có hơi hướng yêu cầu tự do dân chủ mà không bị ghép vào Nhân văn-Giai phẩm trong cái thời Bắc–Nam hai ngả với hai chế độ xã hội khác nhau, đối kháng nhau đó?

 

Để bạn trẻ sau này hiểu rõ hơn “vấn đề tự do dân chủ” được đòi hỏi tức thời những năm đó, cho dù khi tờ Nhân văn chưa ra đời vào hè 1956, nhất là khi bài báo “Trăm hoa đua nở” lại là “liều khởi động kích thích”… với lớp trí thức trẻ từ kháng chiến chống Pháp về công tác và học tại Thủ đô Hà Nội kể cả các địa phương khác và cả bên quân đội đều hưởng ứng...

 

Tôi cũng xin trích một đoạn sau đây của tác giả Phạm Thành Hưng trong bài báo “Triết gia lữ hành Trần Đức Thảo” đăng trên báo Văn nghệ của Hội Nhà văn số 17–18 (ra ngày 29/4/ và 6/5/2006): “Nội dung xã hội và những hình thức của tự do” cùng một số bài khác (của TĐT), công bố trong hai năm 1955–1956, thực chất chỉ là những suy nghĩ tìm tòi rất tự nhiên, chân thành của một học giả quen viết bằng tiếng Pháp và quen khái quát, trừu tượng hoá những vấn đề vốn rất rối rắm trong thực tế…”. Như thế để thấy rõ rằng những năm đầu tiên sau kháng chiến chống Pháp và tiếp quản thủ đô Hà Nội, cảng Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định vùng đất cũ thuộc Pháp quả thật là “hạ tầng cơ sở” đã chi phối “thượng tầng kiến trúc”.

 

Quả là một nhận thức của một người có công tâm, cám ơn tác giả Phạm Thành Hưng. Vậy cái nội dung xã hội “rất rối rắm trong thực tế” hai năm 1955–1956, khi Trường Đại học Sư phạm Văn khoa nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khai trương trong lòng một thủ đô bị địch chiếm mới được giải phóng là như thế nào? Đây là một xã hội được tiếp quản đang mang nhiều “sắc thái tự do” theo hướng tư bản chủ nghĩa – có thể nói là không thuần nhất: tự do trong sinh hoạt kinh tế, tự do trong sinh hoạt báo chí và xuất bản, tự do trong cả ngành giáo dục, cả tín ngưỡng lẫn pháp luật v.v…; khi chính phủ ta chưa áp đặt một cơ chế chính trị ổn định cũng là lúc Đảng và nhà nước ta đang sửa sai về CCRĐ (xem thêm bài của GS Tiến sĩ luật khoa Nguyễn Mạnh Tường đọc tại cuộc họp của Mặt trận Tổ quốc Hà Nội ngày 30/10/1956, đại diện cho trí thức ở thủ đô).

 

Triết gia Trần Đức Thảo vốn đã sống, học tập và sinh hoạt, tham gia các cuộc hội thảo và tranh luận về triết học “thoải mái” ngay giữa lòng thủ đô Paris mang nhiều sắc thái văn hoá châu Âu và thế giới. Ông “thanh minh” với ông Hà Xuân Trường vì sao ông viết bài về “Tự do dân chủ” đăng trên tờ Nhân văn số 3 vào tháng 10/1956, và cũng như tác giả Phạm Thành Hưng giải thích: “Bối cảnh chính trị phức tạp thời kỳ chiến tranh lạnh, sự ấu trĩ và lối nghĩ cơ hội của một số kẻ xấu bụng đã vô tình đẩy ông (TĐT) ra khỏi giảng đường”. Mà chỉ riêng đâu một mình GS Trần Đức Thảo trong cảnh bàng hoàng, ngơ ngác của những con người có “chủ nghĩa” mà các cụ ta xưa, thời Nho học tự hào là nguyên khí quốc gia! Ôi, nguyên khí quốc gia mới hiếm làm sao!

 

Vậy nội dung xã hội về mặt sinh hoạt ở hạ tầng cơ sở thời gian đó là những gì qua mấy năm tiếp quản thủ đô? Kể gọn nhưng hơi dài dòng về tư liệu, từ năm 1955-1956 như sau:

a.  Về kinh tế: Mọi quan hệ về thương mại, trao đổi hàng hoá, chi phí lương bổng, v.v… đều sử dụng loại tiền gọi là tiền tài chính ở Liên khu 4, đi chợ phải mang bị cói để đựng tiền…

b.  Về giáo dục: tháng 10/1954 tiếp quản thủ đô Hà Nội nhưng từ Nam Định (được giải phóng trước) lên đến Hà Nội xuống Hải Dương, Hải Phòng, các trường tư thục cũ vẫn tồn tại, không kể các trường đã tự giải tán khi các thầy cô giáo đã xuống Hải Phòng vô Nam vì tới tháng 5/1955 mới chấm dứt “tự do vô Nam”. Ở Hà Nội, lớp trẻ chúng tôi không có học bổng (mặc dù học Đai học Sư phạm) nên đều phải đi dạy tư, như Cao Xuân Hạo, Phan Kế Hoành dạy trường Khai Thành là trường cấp 3, một trường tư thục nổi tiếng ở Hà Nội cũ, trụ sở ở phố Hàng Chuối. Tôi dạy một lúc hai trường: Trường Dân Chủ ở khuôn viên dọc theo đường Lý Thường Kiệt lên phía ga từ chùa Quán Sứ, có nhiều sư ni học vì trường cấp 3 này do nhà chùa quản lý, trường Điện Biên Phủ, cũng trường cấp 3 do anh Vương Tử Ba trước 1945 dạy ở Quốc Học Huế, tản cư ra Liên khu 4, nay về Hà Nội mở trường. Ngoài ra, tôi cùng người bạn thân Nguyễn Xuân Trường, học Đại học Y khoa, mở một lớp dạy tối (ban ngày là lớp tiểu học) ở phố Lò Sũ. Lớp tối dạy cấp 3 này rất tuyệt, toàn là các nữ sinh đẹp và duyên dáng con nhà giàu ở phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Đường, học khoảng 8 cô thôi, khá giỏi tiếng Pháp. Phổ thông trung học thì như thế, còn tiểu học thì… loạn.

c.  Về báo chínhà xuất bản: sinh hoạt này là “cơ chủ” đại diện cho cơ chế tự do dân chủ! Ngoài mấy tờ báo từ kháng chiến chống Pháp “kéo về”, có chấn chỉnh đôi chút cho phù hợp với thủ đô, như báo Nhân dân ở phố Hàng Trống, báo Quân đội Nhân dân ở đường Lý Nam Đế gần ngã ba Phan Đình Phùng, vườn hoa Hàng Đậu; báo Văn nghệ có 2-3 cơ sở. Đảng Xã hội của Luật sư Nguyễn Xiển có tờ Tổ quốc, trụ sở ở đường Nguyễn Du, phía trên ngã năm đường Bà Triệu (sau này nhà thơ Nguyễn Bao, Đại học Sư phạm Văn khoa khoá II, 1957, về đây công tác). Nhưng thoải mái nhất là tờ Độc lập (có Câu lạc bộ Dân chủ ở đường Tràng Tiền, gần Nhà hát Lớn) của Đảng Dân chủ, do Thứ trưởng Bộ Văn hoá Đỗ Đức Dục và luật sư Dương Đức Hiền đặc trách, có nhà thơ Ngô Quân Miện trong ban biên tập. Tờ báo này “chiêu hiền đãi sĩ” rộng rãi, có nhạc sĩ Văn Cao minh hoạ. Mấy truyện ngắn lịch sử của tôi trong những năm 1965-1975 ở báo này đều do Văn Cao minh hoạ. Song hồi 1955–1956 tôi đã giới thiệu Thúc Hà đăng thơ ở báo này. Về báo chí, mấy năm đó có tờ Thời mới, tờ Tia sáng (của chủ cũ Hà Nội đã vô Nam, nhưng chỉ sống một thời gian ngắn), tờ Hoà bình của nhóm ông Nguyễn Đức Thuyết, trụ sở bên số chẵn Hàng Trống, chếch với trụ sở báo Nhân dân. Tờ báo này cũng chết yểu vì nội dung nghèo nàn như tờ Thống nhất của Ban Liên lạc miền Nam, thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam, đăng các bài văn thơ hướng về Nam. Trong một cuộc thi truyện ngắn của báo này, tôi có gửi 3 bài, được nằm trong giải thưởng, nhưng khi nhà văn Nguyễn Văn Bổng đến báo tin mừng biết tên Nhiên Vũ chính là Bùi Quang Đoài, thì nhà văn này “bay bổng” như chim bị tên…

Xin nói rõ: chính vì thế tôi đã có lời nguyền là sẽ không bao giờ viết truyện ngắn đời thường nữa! Như trên là khá đầy đủ về mặt “anh hào báo chí”, sau đấy là các nhà xuất bản, đất “hào hoa” cho các nhà văn nhà thơ có thể dụng võ: thượng đỉnh là Nhà xuất bản Văn nghệ của Hội Văn nghệ Trung ương lúc đó mới từ Việt Bắc về (Hội Nhà văn Việt Nam thành lập giữa 1957). Nhà thơ Hoàng Cầm làm Phó giám đốc, còn giám đốc là ông Hoài Chân, đồng tác giả cuốn Thi nhân Việt Nam với Hoài Thanh. Nhà xuất bản Văn nghệ này đã in Tuyển tập thơ Việt Nam 1950-1954 lúc mới về Hà Nội, trong đó có bài thơ “Các anh” của Bùi Quang Đoài. Bài này đã được in trên báo Văn nghệ ở Việt Bắc năm 1953. Cũng bài này năm đó, nhà xuất bản Giáo dục của Bộ Giáo dục in trong sách giáo khoa lớp 6, đến năm 1963 thời bao cấp thì bỏ. Chính NXB Văn nghệ này cũng in tuyển tập thơ Dọc Trường Sơn của các văn nghệ sĩ Liên khu 5 trong đó có các nhà thơ Tế Hanh, Khương Hữu Dụng, Trần Mai Ninh, Lương An, Nguyễn Đình v.v…, có cả bài thơ “Qua Bồ Bồ” của Bùi Quang Đoài. Tập thơ này do nhà sưu tầm Trinh Đường chủ biên năm 1956–1957... NXB Quân đội cũng như báo Quân đội Nhân dân đều có mặt từ năm 1955, khi NXB Quân đội mở rộng đề tài về truyền thống đấu tranh bảo vệ đất nước, Thái Vũ đưa bản thảo lần đầu cuốn tiểu thuyết lịch sử Cờ nghĩa Ba Đình do nhà thơ Minh Giang giới thiệu, dù biết rằng tác giả có cảm tình với nhóm Nhân văn-Giai phẩm. Vậy là cả nhà thơ Minh Giang cũng không thoát “tai nạn nghề nghiệp”…

 

Như trên là các nhà xuất bản trong biên chế. Sau đây là các nhà xuất bản tư nhân: NXB Lúa mới ở góc ngã tư Bà Triệu-Lý Thường Kiệt, có nhà in riêng là cơ sở cũ tờ báo Thời mới, chủ đã vô Nam. Số phóng viên còn lại, tháng 5/1955 hết hạn cho phép di cư tự do vào Nam, cũng vào Nam luôn. Một Việt kiều ở Pháp về thủ đô Hà Nội năm đó (1956) mở NXB Thép trên con đường ngắn Hàm Long đi lên đường Bà Triệu, song NXB này qua năm 1956 cũng đóng cửa vì không có khách hàng nào đến gõ cửa, sợ liên luỵ với tư sản…

 

NXB Minh Đức, tức NXB Xây dựng cũ từ Thanh Hoá về (Logo con ngựa bay trắng – Pégase -, thi hứng) do anh chị Trần Thiếu Bảo làm chủ. Trong kháng chiến chống Pháp ở thị xã Thanh Hoá lúc ấy có hai khu vực Rừng Thông và Cầu Bố nổi tiếng sầm uất, vì đây là nơi tập trung dân tản cư chống Pháp từ Vinh ra, nhất là dân buôn bán từ Liên khu 3, cả Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định vào. Thị xã Thanh Hoá lúc đó được coi như thủ đô kháng chiến của toàn miền Bắc, cuốn hút nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng và các tầng lớp trí thức, nhất là từ năm tướng Nguyễn Sơn về Liên khu 4 làm Tư lệnh trưởng. Các cơ quan văn hoá và bên quân sự đều tập trung ở đây. Thời gian này lớp dự bị đại học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng được sơ tán về Thanh Hoá, đóng ở Cầu Kè, trên Hậu Hiền. Hiệu trưởng là giáo sư Đặng Thai Mai, Bí thư đảng uỷ là giáo sư Trần Văn Giàu cùng các giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu và các thầy Cao Xuân Huy, Tôn Thất Chiêm Tế v.v… Thị xã Thanh Hoá tấp nập như thế, đã trở thành mảnh đất văn hoá, cho nên anh chị Trần Thiếu Bảo mới lập NXB Xây dựng, Gs Trần Văn Giàu và thầy Đào Duy Anh đầu tiên được in sách tại nhà xuất bản này. Về Hà Nội, NXB Xây dựng đổi tên là Minh Đức, trụ sở khá rộng ở góc đường Phan Bội Châu, đầu ngã tư Lý Thường Kiệt đi lên. Trong năm 1955-1956 NXB Minh Đức đã cho in nhiều tư liệu uy tín, đặc biệt sách của nhà văn Vũ Trọng Phụng với cuốn Số đỏ rồi cuốn Vỡ đê, đáp ứng được nhu cầu về sách không những cho sinh viên các khoá trường Đại học Sư phạm Văn khoa, mà cả các trường cấp 3 toàn miền Bắc đang tìm hiểu về văn học hiện thực phê phán. Sau đó, Trần Thiếu Bảo được Gs Trương Tửu đỡ đầu nên đã cho xây mộ nhà văn Vũ Trọng Phụng ở làng Mọc, mời Gs chủ lễ khánh thành, có một số anh em sinh viên đại học cùng dự…

 

Tất cả những sự kiện trên về giáo dục, báo chí, xuất bản tạo nên một hướng “tự do dân chủ” không có tổ chức, đúng hơn là tự phát, vào thời điểm bài “Trăm hoa đua nở” của Chu Dương xuất hiện, lại được tờ Nhân văn đổ thêm dầu, với NXB Minh Đức tạo thành một xu thế đòi “tự do dân chủ” với sự hưởng ứng của các văn nghệ sĩ đàn anh cũng như một số trí thức cao cấp mấy năm đó. Hẳn đây là “điểm xoáy”, với nhóm Nhân văn-Giai phẩm trương ngọn cờ đầu đòi “tự do dân chủ” mà xông xáo nhất là một số nhà thơ nhà văn đối lập với Hội Nhà văn, dù chỉ là với mấy vị cầm chịch. Như vậy, hai chữ “nhân văn” mà triết gia Trần Đức Thảo thanh minh với ông Hà Xuân Trường không nằm trong phạm vi đòi “tự do dân chủ” của nhóm Nhân văn-Giai phẩm mà bao quát rộng hơn, như mệnh đề “cái gì có lý, cái ấy tồn tại, cái gì tồn tại, cái ấy có lý” đâu phải theo “hạt nhân duy lý” từ Hégel…

 

Vì thế, Ban chỉ đạo học tập Trung ương đã có biện pháp cho riêng nhóm Văn khoá đại học 1956 đang là cán bộ giảng dạy, học về “tự do dân chủ”, cho anh em phát biểu… thoải mái! Để tránh lầm lẫn như hiện nay, “năm 2006”, dựa trên cơ sở hạ tầng của nội dung xã hội, chúng tôi xin nói rõ: nhóm Đại học Sư phạm Văn khoa và nhóm Văn nghệ sĩ Hội Nhà văn Việt Nam là hai nhóm cách biệt, tuyệt đối không hề có chút quan hệ nào. Ví dụ, năm 1957, Trung ương cho học tập cải tạo và đi lao động thực tế thì chỉ riêng các nhà văn nhà thơ bên Hội Nhà văn bị cấm viết lách từ đó mãi đến năm 1990; còn bên nhóm đại học được “vô can”, kỷ luật không được dạy đại học và trường tư vì tránh tuyên truyền cho “bọn” Nhân văn-Giai phẩm, khi ký quyết định lại được Bộ trưởng Bộ Giáo dục “cải thiện”, cho về các thành phố dạy các trường cấp 3 đầu tỉnh: Hà Thúc Chỉ (Thúc Hà) về Hải Phòng dạy trường cấp 3 Ngô Quyền, nổi tiếng về dạy giỏi, Văn Tâm bị “biếm” lên tỉnh Phú Thọ, lại được về Hà Nội dạy trường cấp 3 Nguyễn Trãi, Phan Kế Hoành về dạy trường cấp 3 Hà Đông, lại được chuyển về Ban Tu thư Bộ Giáo dục, tham dự làm sách giáo khoa, nhưng anh lại rất mê viết về sân khấu…

 

Bùi Quang Đoài (Thái Vũ) được cho về Vinh dạy Đại học Sư phạm Vinh hay hiệu trưởng một trưởng trung học phổ thông ở ngay thủ đô Hà Nội, nhưng xin không nhận; Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên lại cho về Phòng Tuyên truyền báo chí (nhà văn Trần Thanh Mại làm trưởng phòng) của Bộ lúc đó (năm 1958), đảm nhận chức tuỳ viên văn hoá, quan hệ với tuỳ viên văn hoá các nước Hungari, Indonesia, Tiệp Khắc, đã đi Nam Định, Hải Phòng có đoàn quay phim và nhiếp ảnh đi theo.

 

Trường hợp “cải thiện” còn được Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An Võ Thúc Đồng thân ái xử trí, như với Ninh Viết Giao (tham gia viết Đất mới) khi anh được phân công về Vinh (Nghệ An) dạy trường cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng. Gặp Ninh Viết Giao trong một cuộc họp, vì đã được chi uỷ nhà trường và thị ủy Vinh báo cáo về việc Ninh Viết Giao “có ảnh hưởng Nhân văn-Giai phẩm”, Bí thư đã thân mật nói: “Mình thì nghĩ, chẳng qua là các thầy mới ra trường, có kiến thức đấy, song còn non người trẻ dạ, thấy cái mới thì vơ, chưa từng trải cuộc sống, chưa biết sàng lọc đó thôi. Mình tin rằng các thầy sẽ vững vàng đi lên trong cuộc sống, nên đã nói với nhà trường và thị uỷ rằng đừng có chấp những điều đó ở các thầy”. (Theo Xứ Nghệ và tôi của Ninh Viết Giao, trang 49)

 

Chính nhờ đó, Ninh Viết Giao đã “đi tìm quặng Xứ Nghệ” (như lời nhà sử học Chương Thâu) với một “kho tàng sách biên thảo” về mặt xã hội văn hoá của xứ Nghệ mà chính ngay dân xứ Nghệ “gốc” cũng chào thua và anh đã trở thành giáo sư, người cầm chịch trong thể loại “Văn học dân gian” toàn quốc. Đặt biệt trường hợp Lê Bá Hán, khoá II Đại học Sư phạm năm 1957, tham gia Đất mới khá tích cực, nhưng vẫn được giữ lại trường, sau đó về Vinh làm cán bộ giảng dạy rồi Khoa trưởng khoa Văn Đại học Sư phạm Vinh, chưa nói đến một số các bạn khác cũng tham gia tờ Đất mới sau này đều trở thành nhà văn nhà thơ nổi tiếng của Hội Nhà văn Việt Nam, như Văn Tâm, Nguyễn Bùi Vợi. Riêng chuyện buồn là trường hợp Hà Thúc Chỉ, thủ khoa lớp 1956, lại là nhà thơ trẻ được Huy chương Vàng ở Đại hội Thanh niên Thế giới Warszawa, Ba Lan (1955) với bài thơ “Chờ con Má nhé”, khi anh được phân công về Hải Phòng dạy trường cấp 3 Ngô Quyền. Là thầy dạy giỏi nổi tiếng luôn mấy chục năm ở đất Cảng, học trò anh sau này nhiều người trở thành nhà văn nhà thơ, còn anh lại “bị bỏ quên hẳn”, kể cả chính quyền Hải Phòng – thành phố Biển. Năm 2000, chuyển thế kỷ 20 qua thế kỷ 21, thành phố cho in toàn tập Nhà văn Hải Phòng dày trên 1.400 trang mà “cho qua” tên Thúc Hà, dù rằng trước đó, anh đã có tập thơ Mưa biển và chính nhạc sĩ Hồng Đăng lúc ấy có lấy một bài phổ nhạc…

 

Tấm lòng lãnh đạo là thế mà tình đời phải chăng cũng là thế, khi vô khối những dây bìm bìm bám theo dai dẳng qua thời gian thành kiến, không biết anh sai lầm về vấn đề gì, chỉ mơ hồ nghe nói là theo Nhân văn-Giai phẩm. Viết đến đây cũng buồn khi nghĩ đến nhà văn Nguyễn Bính, ông cũng mê tự do dân chủ không kém chi ai, hẳn là đã chịu ảnh hưởng “Trăm hoa đua nở” nên dù nghèo cũng bỏ tiền túi ra in một tờ Trăm hoa (trụ sở ở đường Lê Văn Hưu). Đến khi Nhân văn-Giai phẩm bị kết án, nhà thơ cũng chịu nạn chung, phải về thành Nam lánh nạn. Lúc ấy giám đốc Sở Văn hoá Nam Định là nhà văn Chu Văn săn sóc quả là tận tình… đến “cái chết khó hiểu” của Nguyễn Bính. Sau đó, thời Đổi mới, Chu Văn lại ca ngợi Nguyễn Bính để lập công, khi đất nước đã mở rộng kinh tế thị trường. Cũng xin ghi thêm trường hợp hai nhà thơ trẻ hồi đó là Phùng Cung và Nguyễn Hà (tên nữa là Huyền), khi các anh vì mê văn thơ đúng lúc tờ Nhân văn nổi đình nổi đám, lại hợp tác không lương trong nhóm biên tập Nhân văn, dưới bàn tay tráo trở, lắm thủ đoạn của hoạ sĩ Trần Duy, thư ký biên tập tờ Nhân văn. Tôi biết Phùng Cung qua bài “Con ngựa già của Chúa Trịnh” đăng trên tờ Nhân văn, khi đến “Quán cơm sinh viên” cũng là CLB sinh viên bên số lẻ (gần một cái chùa nhỏ) khoảng đầu ngã tư Bà Triệu và đường Hai Bà Trưng (không xa Hồ Hoàn Kiếm). Gặp Nguyễn Hà cũng ở đó, quán cơm sinh viên rẻ tiền, ban quản lý là mấy bà mẹ, mấy chị lớn tuổi buôn bán ở Hà Nội, sau vụ Nhân văn-Giai phẩm cũng bị nạn là tan rã. Ôi Hà Nội hai năm đầu giải phóng!

 

Tháng 8/1956 tôi nghỉ hè nên về Vinh, nơi song thân tôi tản cư từ Thái Yên, Đức Thọ ra, vì trước 1945 gia đình tôi có ở Vinh. Giữa thị xã của nắng và gió Lào, đi ăn sáng về với ông anh rể thì gặp anh Phan Ngọc, chuyên viên về học thuật của trường đại học mới vào Vinh. Qua anh tôi mới biết có tập Giai phẩm mùa Thu, lại có cả tờ báo Nhân văn đang gây dư luận ở Hà Nội. Là thằng mê văn chương, làm thơ rất sớm, nên mấy ngày sau tôi đi tàu ra ngay Hà Nội.

 

Hà Nội mùa thu thật đẹp vào đầu tháng 9. Tờ Nhân văn đã ra đến số 2 và có lẽ sắp ra số 3, đúng lúc dư luận trong đám văn chương đang xôn xao về bài viết của ông Hoàng Xuân Nhị: “Tổ chức của Đảng và văn học có tính Đảng” đăng trên tờ Nhân dân. Đây là một chuyên đề hấp dẫn thời đó ở Hà Nội. Qua tài liệu sách báo, những năm đầu chính quyền Xô Viết, Lênin có nói chuyện về tính Đảng trong văn học với nhà báo cách mạng Đảng Cộng sản Đức Clara Zetkin. Tôi nói là “chuyên đề” vì chính tôi và một số bạn cùng lớp cũng đang tìm hiểu nghiên cứu đề tài hấp dẫn đó. Nghĩa là đề tài “trúng tủ” của chúng tôi, cũng có nghĩa là đề tài mà ông Hoàng Xuân Nhị đã chạm vào như giẫm phải ổ kiến lửa.

 

Tôi đang loay hoay tìm tờ Nhân dân để đọc thì thật tình cờ nhà thơ Vũ Đình Liên đến. Tôi đang ở 27 phố Lữ Gia, góc chéo đường Trần Xuân Soạn phố Lò Đúc. Anh Vũ Đình Liên đến gặp tôi vì có tin là trường Đại học Sư phạm mời anh về dạy năm tới, mà tôi là thư ký học thuật trong bộ môn Văn, tất biết. Đúng vậy, thầy hiệu trưởng Đặng Thai Mai rất tin tôi, mọi công việc giấy tờ thuộc “văn phòng” bộ môn Văn đều trong tay tôi, kể cả lý lịch cán bộ giảng dạy. Ví dụ: sách báo thư từ từ Pháp gửi về thầy đều ghi Monsieur le Doyen Đang Thai Mai, chứ không ghi là “Professeur” để tỏ lòng tôn kính thầy là bậc trưởng lão cao niên trên hàng professeur. Về lý lịch, Hoàng Xuân Nhị có một lý lịch đặc biệt buộc tôi phải chú ý: ông ta học ở Pháp; 1939 Đức Quốc xã chiếm Paris, lập chính phủ bù nhìn bán nước Vichy với thống chế Pétain, Hoàng Xuân Nhị đã theo quân Đức Quốc xã qua Berlin và được nuôi dưỡng; năm 1945 Đức bại trận, Hoàng Xuân Nhị trở về Paris và… sau đó gia nhập Đảng Cộng sản Pháp v.v… và v.v…, đến năm 1955 đã thấy ông ở Hà Nội dạy năm đầu Đại học Sư phạm Văn khoa, khi tôi học năm thứ 3. Về trình độ học vấn của ông thì sau này, khoảng sau năm 1970 còn có hai bài bàn tới, đăng trên hai số báo Văn nghệ, của Hoàng Minh và Tạ Ngọc Liễn.

 

Chuyện viết bài “kê” ông Hoàng Xuân Nhị trên tờ Nhân văn đúng là chuyện “không mời mà đến”, nhưng khoảng một tuần sau, hoạ sĩ Trần Duy đến đưa thư cảm ơn và “xin miễn nhuận bút vì tờ báo đang nghèo”. Song cùng lúc Trần Duy lại đưa ra một tập bản thảo viết tay, giấy đủ loại và đủ cỡ, rồi nói tiếp: “Sau tập Giai phẩm mùa Thu này là tập Giai phẩm Sinh viên”. Tôi thích thú vì đang định tập viết về chuyện sinh viên sau khi đọc cuốn Les Etudiants của Liên Xô, vì lúc đó có nhiều chuyện vui giữa sinh viên từ kháng chiến về Hà Nội và sinh viên Hà Nội cũ. Trần Duy cho biết sau tập Giai phẩm Sinh viên sẽ là tập Giai phẩm Công nhân, Giai phẩm Nông dân, gãi đúng mơ ước của tôi và các bạn ở đại học lúc đó. Hơn nữa người đứng đầu trong tập Giai phẩm Sinh viên này lại là Văn Tâm, bạn tốt nghiệp đại học cùng khoá, cũng là chỗ quen biết cũ ở thị xã Thanh Hoá, tôi quen cô Mai em gái Văn Tâm. Hơn nữa Trần Duy mở tập bản thảo có chữ ký của Văn Tâm là đã tuyển chọn kỹ, nay do tôi quyết định cuối cùng. Tâm lý tuổi trẻ là háo danh, “ngựa non háu đá”, được tâng bốc tôi nhận ngay. Tôi rủ Thúc Hà tuyển thơ, mới biết anh chị em sinh viên ai cũng mê văn chương. Khi biết tôi là người quyết định cuối cùng tập Giai phẩm Sinh viên, các tác giả có bài nhiều lần đến gặp tôi: ai cũng cho bài của mình là hay. Vì vậy chọn bài rất khó. Tôi thấy Cao Huy Đỉnh có bài; vì là bạn khá thân, Đỉnh là đảng viên, tôi bảo Đỉnh nên rút bài về. Đa số bài là chống tiêu cực, chống bè phái theo kiểu như báo Nhân văn. Duy bài đầu chống tiêu cực ở đại học, nhất là ở mấy năm dự bị đại học thì do Văn Tâm viết, liên quan đến khoá II dự bị đại học và khoá đầu đại học, tốt nghiệp 1956. Tôi phải viết lại, bổ sung việc của khoá dự bị đại học đầu tiên, chẳng hạn anh em rất bất mãn về việc xử lý của thầy T.V.G trong Đảng uỷ với nhóm Thành, Khái, Nhâm, sau này là Ng. Duy Bình (như cắt học bổng của anh em Liên khu 4 và Bình Trị Thiên để bồi dưỡng cho Hiệu đoàn trường là cánh Liên khu 3 giàu có). Cho nên sau này phản ứng chính là từ tổ chức, lãnh đạo đại học chứ không phải từ các thầy dạy, các giáo sư. Riêng về truyện ngắn ít đạt, tôi loại khá nhiều, tuy nội dung tốt về chống tiêu cực tham ô, nói chung đó là tiêu điểm chính của nội dung tập Giai phẩm Sinh viên. Do vậy chỉ trong thời gian rất ngắn tôi viết “Lịch sử một chuyện tình” trong sinh viên mà các nhân vật đều có thật trong khoá học của chúng tôi (cả bên Văn và Sử).

 

Nhưng gay cấn nhất là tên Đất mới mà Văn Tâm và Trần Duy bảo lưu cho kỳ được, khi tôi phản ứng rằng cái tên đó là một địa điểm xưa ở Huế, ngay sau sân vận động Huế (nơi đó hiện giờ có “Quán cơm Âm Phủ”), trên làng Vân Dương, là nơi tụ tập đĩ điếm và dân nghiện hút. Khu vực này dân Huế đều biết. Vì chủ sòng Trần Duy và Văn Tâm trong nhóm NXB Minh Đức quen thân với anh Trần Thiếu Bảo, họ bỏ tiền in thì họ… có quyền giữ tên Đất mới.

 

Chuyện đời là thế, tôi cũng buồn khi “gặp tai nạn”, chịu đựng, vì dù sao tôi cũng là người lính trong kháng chiến chống Pháp, có công, cũng nhẹ tội hơn anh em mà đa số là sinh viên mới toanh, từ trường phổ thông trung học lên đại học. Hơn nữa gia đình, dòng họ tôi chống Pháp từ thời Cần Vương, cụ Lê Thước và thầy Đặng Thai Mai biết rất rõ. Khi cụ thân sinh thầy Đặng Thai Mai là Phó bảng Đặng Nguyên Cẩn làm Đốc học tỉnh Hà Tỉnh những năm 1906-1908 chống sưu thuế, cụ và tiến sĩ Ngô Đức Kế bị bắt và đày đi Côn Đảo, còn cố nội tôi là cụ Bùi Quang Thích trước đó là Tuần vũ Hà Tĩnh thì bị thực dân cho “hưu dưỡng” vì tuổi già, kể từ những năm chống Pháp ngoài Bắc thời vua Tự Đức, 1880 đến thời vua Thành Thái 1907. Ông nội tôi, thời Đồng Khánh bị biếm ra giáo thụ tỉnh Phú Thọ từ thời tỉnh đó còn gọi là phủ Hưng Hoá. Cụ đã theo nghĩa quân của Tuần vũ tiến sĩ Nguyễn Quang Bích chống Pháp nên bị chúng đày qua Nam Mỹ, xứ Guyanna, 19 năm. Năm 1919 cụ được tha về, mất năm 1921 ngoài Phú Thọ, vì vậy thời Pháp thuộc, gia đình tôi bị liệt vào hàng “cừu gia tử đệ”.

 

Hôm nay viết những dòng này không phải để “khoe công” mà vì tôi đã giữ im lặng tuyệt đối bao năm, nay tuổi đã cao, có chăng vài dòng “sám hối” khi tôi lấy nhân vật Kỳ nữ Thais qua bản nhạc của Massenet, cho nhân vật Long kéo violông trong “Lịch sử một câu chuyện tình”, tập Đất mới

 

II. Triết gia Trần Đức Thảo và nỗi buồn từ Hà Nội
 

Nghĩa là triết gia Trần Đức Thảo chưa hiểu được thấu đáo sau trên 20 năm ở Pháp trở về Việt Nam, cũng là 2 năm chân ướt chân ráo về Hà Nội, lại ở ngay trong khuôn viên trường đại học, chỉ gần gũi với các đồng nghiệp và sinh viên Đại học Sư phạm. Như thế, hẳn sinh hoạt Paris đâu có phai mờ, nhất là những cuộc tranh luận về triết học với nhà văn triết gia J. P. Sartre. Trùm toàn bộ mọi mặt sinh hoạt của thầy hẳn vẫn là không khí Paris “tự do và dân chủ” và những suy nghĩ của thầy “thực chất chỉ là những suy nghĩ tìm tòi rất tự nhiên, chân thành” theo dòng suy tư quen thuộc của thầy trong định hướng triết học mà thầy hằng ấp ủ.

 

Tại nạn Nhân văn-Giai phẩm mà sau này người ta tránh né gọi là “tai nạn nghề nghiệp”, đúng ra chỉ đối với các nhà văn nhà thơ bên nhóm Hội Nhà văn Việt Nam, còn bên nhóm đại học thì như “vết thương đầu đời”, nhưng không ngờ nó lại bị khoét sâu thêm, khiến những dây “bìm bìm” thừa cơ xuyên tạc, chụp mũ khi xẩy ra hai sự kiện “đổi tiền qua thuế công thương nghiệp” và “đấu tranh cải tạo tư sản (mại bản)” trong các năm 1958–1960. Song chính trong mấy năm này, nội bộ phe xã hội chủ nghĩa, Anh Cả Liên Xô và Chị Hai Trung Quốc đã có bất đồng trong thế chiến lược nước lớn, với Trung Quốc khi kế hoạch 5 năm đầu tiên thắng lợi, muốn thoát khỏi sự kìm chế của Liên Xô qua “sự phân công xã hội chủ nghĩa”. Cuộc luận chiến đó càng trở nên gay gắt khi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Khrushchev nối quan hệ với Mỹ. Nếu ở Việt Nam luận điểm “hồng và chuyên”, với những phong trào “Gió đại phong”, “Sóng duyên hải”, “Cờ Ba Nhất”… của phía Trung Quốc từ năm 1958 được các cơ quan trung ương cho phổ biến thì bên Trung Quốc, cũng theo hướng đó đưa ra mô hình “nông thôn bao vây thành thị” hay đúng ra là “nông thôn thế giới bao vây thành thị thế giới”, nghĩa là chống hiện đại hoá, không chỉ riêng với Mỹ mà cả với Liên Xô. Sau Đại hội 20, Đảng Cộng sản Liên Xô chủ trương “Chung sống hoà bình” với Mỹ, Trung Quốc đối đầu gay gắt với Liên Xô bằng luận điệu chống chủ nghĩa xét lại, khi Liên Xô tung ra luận điệu chống chủ nghĩa giáo điều, chống sùng bái cá nhân.

 

Đúng là “trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”. Ở Việt Nam, chống chủ nghĩa xét lại đánh dấu từ sau đám tang Dương Bạch Mai – nguyên chủ tịch hội Hữu nghị Việt Xô, người bị cho là “chủ bài” của chủ nghĩa xét lại ở Việt Nam. Đây chính là lúc triết gia Trần Đức Thảo “lâm nạn” đi chu du lên Sơn Tây, thời điểm mà một số giáo viên nắm quyền lên chức tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội ở Cầu Giấy đấu tố chụp mũ để lập công và một số giáo viên khoá đại học 1956 vốn đã bị quy là có dính dáng đến vụ Đất mới, nay lại thêm tội “theo chủ nghĩa xét lại”, nên đã “được” đi lao động cải tạo, lên Phú Thọ trồng chè một thời gian… Đúng là giây bìm bìm đâu có dứt, người bị “chụp mũ” mà không hề biết mình có tội gì, cứ bị quy có dính dáng đến “chủ nghĩa xét lại” là ok! Gần đây đâu có hết, cái đám dây bìm bìm đó vẫn tồn tại. Thời gian ngắn sau đó, trên báo Nhân dân có tin đăng “học đại học” thì được gọi là “học sinh đại học”, bỏ từ “sinh viên”. May sao, chuyện đó sớm bị bãi bỏ.

 

Đó chính là thời gian triết gia Trần Đức Thảo được chuyển lên khu tập thể Kim Liên ở nhà B6, “xóm giáo sư”, thời gian mà tác giả Phạm Thành Hưng nêu ở trang 44 báo Văn nghệ số 17–18 đầu năm 2006, khi vợ chồng triết gia chia tay và triết gia “trở thành người đàn ông độc thân, nổi tiếng thêm bởi sự đãng trí, hồn nhiên, cơ hàn trong sinh hoạt”.

 

Cũng xin cám ơn và trích đoạn sau đây của tác giả Phạm Thành Hưng về thời gian trên của triết gia Trần Đức Thảo: ông “vẫn ung dung tự tại chấp nhận hình thức cải tạo tư tưởng… một thời gian đúng với tư chất của một hiền nhân Đông phương rồi lại say sưa với công việc mới, công tác biên dịch tại NXB Sự Thật”. Chao ôi, đẹp thay và bình lặng thay một câu chữ đối với trường hợp một trí thức bậc thầy, một triết gia lặn lội từ bên trời Tây về với đất mẹ Việt Nam của phương Đông. Nghĩa là viết như thế chỉ có thể đúng với một anh chăn bò vô tư và an phận, với vợ hiền con thảo khi được trở về Hà Nội, từ đất cằn Sơn Tây… Vậy thì lý giải làm sao đối với trường hợp một triết gia đã từng bao năm suy tư và giảng dạy trên giảng đường đại học về “cái hạt nhân duy lý” mà Hégel đề xuất, về cái “hình thức ý thức và hoạt động khác nhau của con người” dẫn đến thành quả trong phép biện chứng hiện tượng học để rồi chính ông, triết gia Trần Đức Thảo đã đảo ngược lại trong Hiện tượng học và phép biện chứng chủ nghĩa Mác? Rõ ràng là trong thời gian chu du với mấy con bò, “kẻ lữ hành” đâu có “ung dung tự tại” để suy nghĩ về công trình Logic của cái hiện tại sống động “của một hiền nhân phương Đông khi làm biên dịch ở NXB Sự Thật”?

 

Mất mát mọi thứ trong cuộc sống, trong sinh hoạt đời thường, bơ vơ chỉ biết mình với mình mà cái câu ám ảnh triết gia hẳn luôn vẫn là theo cách suy tư của mình bằng tiếng Pháp: “Ce qui a raison, existe, ce qui existe, a raison”. Rõ ràng là thế thầy mới “mơ mộng” chuyện được qua nước Pháp, nơi sản sinh ra cái “tư duy kiểu Trần Đức Thảo”, để được viết nốt tác phẩm của mình. Người tu hành thường chịu khổ hạnh để mong lên được Niết bàn, triết gia Trần Đức Thảo cũng thế, dù có đói khát cơ hàn trong sinh hoạt, mất mát trong tình cảm, thầy cũng mong qua được nước Pháp để hoàn tất công trình triết học của mình, như nhà văn nhà thơ quên đời khi thai nghén để hoàn chỉnh tác phẩm… Nhưng buồn thay, lần trở về nước thứ hai này từ đất Pháp lại là đống tro tàn “cát bụi trở về cát bụi”… Vậy, hẳn ai đâu có quên cái câu chữ của Descartes: “Je pense, donc je suis”!
 

Ở phần hai bài viết nói trên của Phạm Thành Hưng là về sinh hoạt đời thường của triết gia Trần Đức Thảo, như chuyện mà bà hàng nước ở Kim Liên kể lại, chuyện tự đi chợ mua rau mua củi “hỏi giá hàng rồi trả giá”, chuyện “nằm ngủ” ở nhà tang lễ Phùng Hưng Hà Nội mà nhà thơ Phùng Quán đã kể khá tỉ mỉ. Tuy nhiên, đó chỉ là chuyện kể của những người ngoài cuộc, những người xa lạ, những người “không hề biết tên Trần Đức Thảo là ai”! Xin nói rõ rằng những dây bìm bìm có leo và bịa chuyện này nọ để mong thăng quan tiến chức chứ ai đâu xa lánh thầy khi thầy về nhận công tác ở NXB Sự Thật, vì có trong biên chế mới có lương để sống. Thưa rằng, thầy chỉ có mấy người học trò, ít thôi, vẫn âm thầm tìm cách giúp đỡ thầy trong cơn hoạn nạn và người duy nhất tôi xin được nêu tên và thắp nén hương tưởng nhớ hương hồn là anh bạn học khoá hai Đại học Sư phạm, tốt nghiệp năm 1957, anh Đoàn Mai Thi.

 

Mỗi lần cần mua cái gì trong sinh hoạt thường ngày, nhất là mật ong khó kiếm thời bao cấp, thầy cũng chậm chạp trên chiếc xe đạp “mini” kiểu Liên Xô cũ, đến lối ngã 5 đường Lò Đúc Phan Chu Trinh, dừng xe đứng chờ anh Đòan Mai Thi vì nhà anh ở gần đó…

 

Thời gian từ 1965 sơ tán chống Mỹ cứu nước, hẳn thầy gặp rất nhiều khó khăn, còn chúng tôi thì bận việc gia đình con cái nên không thể gặp được thầy, nhất là khi bên Trung Quốc đang chống chủ nghĩa xét lại, chống đế quốc Mỹ, tiếp đến Đại Cách mạng Văn hoá, quan hệ Trung-Xô đổ vỡ hoàn toàn, dẫn đến chiến tranh biên giới giữa hai nước năm 1969. Lạ lùng nữa, ngay tình “đồng chí” trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc, cánh Mao Trạch Đông triệt hạ nhiều cán bộ trung ương Đảng có công lớn với cách mạng như Bành Đức Hoài, Diệp Kiếm Anh, đặc biệt còn quy tội Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ là “tay sai của chủ nghĩa đế quốc”, “Kẻ số 1 theo chủ nghĩa tư bản” và giam cầm, đày đoạ ông đến chết trong nhà tù Khai Phong 1969, thì việc gặp thầy Trần Đức Thảo từ nước Pháp tư bản trở về là rất dễ bị quy tội như bên Trung Quốc trong Đại Cách mạng Văn hoá. Gặp thầy lủi thủi đạp chiếc xe đạp mini cộc cạch cũng đành làm ngơ, nhiều khi không dám nhìn. Chỉ riêng anh Đoàn Mai Thi luôn liên hệ giúp đỡ thầy. Anh mất trước năm 1975, không được chứng kiến miền Nam Việt Nam hoàn toàn giải phóng.

 

Riêng tôi thời gian này cũng rất bận vì cuốn Ba Đình được NXB Quân đội “bảo vệ và giúp đỡ”, song 1973 vì tình hình viện trợ cách mạng miền Nam nên 1976 mới in xong. Từ đó, tôi vào Huế cuối năm 1980, trở thành nhà văn được nhiều NXB xin bản thảo, nên tôi không ra Hà Nội gặp thầy được. Đúng ra tôi đã lầm nghĩ là thầy đã an bài làm công tác dịch thuật ở Nhà xuất bản Sự Thật, cũng như tác giả Phạm Thành Hưng mới chỉ hiểu được một mức độ nhất định khi ông viết về Trần Đức Thảo. Phạm Thành Hưng không phải là học trò của triết gia Trần Đức Thảo, nên khó hiểu nổi “tư duy kiểu Trần Đức Thảo”, tuy bài của ông ta có công tâm, khách quan. Thầy từ nước Pháp về Việt Nam theo “đường zigzag” bằng tiền túi, nhưng nay muốn qua Pháp để hoàn tất công trình triết học của mình thì chẳng qua như “nước đại dương kết giọt chốn không bờ”, như “giữa mênh mông sa mạc mà mây trời không ánh”. Cho nên khi được chính phủ ta trợ cấp cho qua Pháp 3 tháng để viết “công trình triết học” như vậy, thầy đâu có “ung dung, tự tại”, vì 3 tháng là thời gian quá hạn chế cho một công trình triết học đòi hỏi thời gian một năm, có khi đến vài năm…

 

Khi thầy từ Hà Nội vào TPHCM, tôi đâu có biết vì đó là thời gian tôi đang ở Huế, viết mấy cuốn tiểu thuyết lịch sử, có tiền nhuận bút tôi mới về lại TPHCM.

 

Tôi đến Viện Khoa học Xã hội gặp Nguyễn Công Bình, đại diện cho các tỉnh phía Nam (anh là bạn cũ từ Hà Nội), tình cờ thấy cuốn Vấn đề con người và chủ nghĩa lý luận không con người với tên tác giả: Giáo sư Trần Đức Thảo, mới biết hiện thầy đang ở khách sạn Bến Nghé, đường Nguyễn Trung Trực. Tôi định tìm mua một cuốn, mừng thầy được in sách thì Nguyễn Công Bình cho biết ngoài Hà Nội đã có lệnh vào là phải thu hồi cuốn đó lại, nhưng khó khăn là sách đợt một đã bán hết sạch, sách tái bản lại vừa in xong, có cả phần Kết luận bổ sung, nên trước “lệnh” từ Hà Nội, Nguyễn Công Bình đành bất lực. Nghe cái “lệnh” thu hồi cuốn Vấn đề con người… tôi đã buồn, nhưng tin sách đã lỡ tái bản, tôi chợt hiểu mặt sau của vấn đề và lại thấy vui vui, nên sáng đó tôi vội vã đến ngay khách sạn Bến Nghé…

 

Cuốn sách hấp dẫn chẳng những đối với giới trí thức TPHCM mà cả với các nhà giáo và sinh viên, vì thời gian từ 1980 người đọc dễ liên hệ tình hình diệt chủng dã man của bọn Pol Pot –Ieng Sary bên Kampuchia. Nhưng tác phẩm của thầy lại không hề nói mảy may đến vấn đề đó. Triết gia chỉ nêu những quan điểm triết học chung quanh những vấn đề con người, xã hội, giai cấp và lịch sử cũng như các vấn đề về quan điểm con người dưới góc độ triết học trong dân chủ hoá và đấu tranh chống tiêu cực mà tác giả đã từng quan tâm. Đây là một phương pháp luận của vấn đề Con Người.


III. Triết gia Trần Đức Thảo và con đường lữ hành về với… đất
 

Tôi đến khách sạn Bến Nghé ở đường Nguyễn Trung Trực, phân vân vì đầu năm 1976 cũng tại con đường này nhưng ở phía bên kia là trụ sở của Bộ Văn hoá của Mặt trận Giải phóng miền Nam, anh Lưu Hữu Phước là Bộ trưởng. Anh thân tình bắt tay tôi khá chặt và bảo thư ký văn phòng pha cà phê sữa. Thư ký văn phòng tên là Hùng Nam không ngờ lại trùng tên với con trai út của tôi đã mất nên lòng tôi đang vui lại buồn. Anh nói: “Vô đây thì ở lại đây với anh”, nghĩa là tôi sẽ… làm quan, lại được ông Bộ trưởng ưu ái đỡ đầu. May mà tôi đã từ chối, vì nếu không thì làm sao lần này tôi có thể gặp Thầy tôi, triết gia Trần Đức Thảo, khi trong tay tôi đã có hai tác phẩm Biến động-Giặc chày vôi Huế 1885. Chuyện đời… tác phẩm văn học và chức quyền thế đó…

 

Đến khách sạn Bến Nghé, nhân viên phục vụ hướng dẫn tôi lên lầu 2. Tôi đứng nín thở lát sau mới gõ cửa, nghĩ lâu năm có lẽ Thầy đã quên mình. Nhưng không, Thầy vẫn nhớ, ôm lấy hai vai tôi lắc lắc. Nước mắt ngấn trên mi, tôi chỉ hỏi Thầy có khoẻ không. Phòng khách sạn đúng ra chỉ là một phòng trọ tạm thời, một cái giường đôi trải nệm chiếm gần trọn căn phòng, nhưng đặc biệt ngay từ lối vào là hai cái tủ đứng… đầy sách, đến một cái bàn nhỏ để sách báo và phía ngang phòng lại một cái bàn nữa và hai cái ghế gỗ có nệm, trên bàn có mấy tập Tạp chí Cộng sản và mấy tờ Tin Moscow bằng tiếng Pháp. Vậy là Thầy vẫn mê Liên Xô, tuy là để lấy tin tức, vì năm 1988 này là thời gian Gorbachev đang làm Tổng Bí thư và quan hệ chặt chẽ với Mỹ từ 1985. Gần đó trên một cái ghế nhỏ có một bếp điện nối dây may-so, cũng lại của Liên Xô vốn đang được dùng ở Việt Nam từ Bắc chí Nam. Thêm một tờ báo Sài Gòn Giải phóng mở rộng nằm trên giường, có lẽ thầy đang đọc.

 

Tất nhiên hai thầy trò ngồi bên mép giường nói chuyện. Nhìn đồ vật trong phòng, tôi thấy một cái làn nhựa, trong đó có mấy quả cà chua chín đỏ và linh tinh mấy thứ thuộc về bếp núc, lại ở sát cửa phòng WC. Té ra là Thầy vẫn tự nấu ăn, kiểu ăn chay với gói mì tôm hay bánh mì, cả một túi gạo nhỏ có lẽ để nấu cơm. Trời ơi! Thiếu hẳn một bàn tay chăm sóc của người đàn bà… Hỏi ra mới biết ở Sài Gòn Thầy còn có gia đình một người cháu. Chính họ cứ cách ngày đến giúp Thầy dọn dẹp và đi chợ mua mọi thứ, nhưng không phải nấu ăn giúp Thầy. Tôi cũng an tâm vì không muốn động chạm đến đời tư của Thầy. Từ đó, mỗi tuần tôi đến thăm Thầy hai lần, đưa cả mấy số báo Văn nghệ thời mở cửa, có truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mà người ta đang có nhiều ý kiến khác nhau, nhất là chuyện “Tướng về hưu”. Thầy đọc báo xong, lần sau tôi đến, Thầy trả lại báo và bảo: “Cậu viết một bài cho ‘nó’ hiểu!”. Tôi thưa là viết làm gì, rồi họ lại bảo tôi cơ hội chủ nghĩa, cũng ngại như cái thời ở Hà Nội nhà thơ Hoàng Cát viết bài “Cây táo ông Lành” mà quên chuyện thời phong kiến, triều Nguyễn kết tội phạm huý rất nặng, nay với cái tên “ông Lành" đó.

 

Ngoài mấy chuyện vặt giữa thầy và trò, thầy hay nói chuyện với tôi về Nietzsche và Kant, nhất là về Kant, người lấy trẻ em làm điểm khởi động siêu hình học của mình nhưng lại là người rất ít gần trẻ em (tôi tạm ghi như thế - T.V). Đó là những lúc thầy vui, ánh mắt sáng lên khi nói về trẻ em. Với những chuyện như thế, tôi thường tránh không làm thầy liên tưởng đến đời thường. Có lần Hoàng Thiệu Khang, tốt nghiệp đại học khoá 2 năm 1957 đến thăm thầy, và lý luận gì đó với thầy thì tôi vừa đến. Tôi trách Khang, Khang mới thanh minh là chỉ nói chuyện thời sự với thầy về Gorbachev phản bội: té ra thầy không bằng lòng ý kiến của Hoàng Thiệu Khang và thầy vẫn bảo vệ chính quyền Xô Viết, nhất là bảo vệ Lenin. Vui gần thầy, quý thầy, tôi mới nói với em tôi là hoạ sĩ Bùi Quang Ngọc, vốn giỏi vẽ chân dung, đến thăm thầy và vẽ cho thầy một chân dung trước khi thầy qua Pháp. Chú Ngọc đến và được thầy đồng ý ngay.

 

Tất nhiên là vẽ chân dung trực tiếp thì mất mấy buổi sáng, nhưng chú Ngọc vẫn nhiệt tình đi xe đạp từ khu cư xá Thanh Đa xuống Quận 1 vẽ chân dung cho thầy. Có lần thấy thầy ăn uống quá kham khổ, nên em tôi mang 1 kg giò lụa còn nóng đến biếu thầy, nhưng thầy nói thầy vẫn ăn cà chua chín đỏ do cô cháu mua. Thời gian chú Ngọc vẽ chân dung thầy thì tôi đi Huế. Lúc về tôi hỏi chú Ngọc thì chú ấy kể lại: thầy đứng xem chân dung của thầy rất lâu rồi đến bên chú Ngọc, cầm lấy vai chú Ngọc cám ơn. Lát sau không biết thầy loay hoay tìm cái gì, hoá ra thầy tìm cái chứng minh thư của thầy, rồi bóc tấm ảnh trong đó ra tặng chú Ngọc. Đó là buổi gặp gỡ cảm động nhất của em tôi với thầy.

 

Năm 1988, tôi gần triết gia Trần Đức Thảo nhiều nhất cũng là thời gian thầy tặng tôi cuốn Vấn đề con người và vấn đề lý luận không con người, đúng lúc đất nước đang chuyển bước sang kinh tế thị trường, rồi chuyện “giá-lương-tiền” ra rả trên đài, nhưng thầy không chú ý. Thầy biết là thầy sắp được qua Pháp vì lãnh đạo Thành uỷ có cử người đến khách sạn thăm sức khoẻ của thầy. Thành uỷ muốn thầy thật khoẻ để thầy sang Pháp. Điều này có lẽ làm thầy suy nghĩ vì đơn thương độc mã, thầy chỉ biết lo cho thầy. Từ tình cảm đó tôi xin kể mấy chuyện sau đây, rất thân tình thầy mới nói với tôi.

 

Ở khách sạn, khách đến trọ thường chỉ ngắn ngày. Vì vậy nhân viên phục vụ phải lễ độ, nhưng với trường hợp thầy vì ở quá lâu, mỗi lần họ lên dọn dẹp phòng biết cuộc sống đơn chiếc của thầy nên thái độ của họ cũng có khác: họ đề nghị với thầy không được cắm phích điện để nấu thức ăn, nếu muốn nấu thì xuống tầng trệt ở dưới. Họ chỉ gợi ý thôi nhưng có lẽ thầy thấy “tủi thân” kiếp ở nhờ, nên một lần tôi đến, thầy bảo: nếu có thể thuê giúp thầy một căn phòng nhỏ ở dưới đất để thầy dọn đến, sống tự do, độc lập. Tôi có hỏi về gia đình người cháu, thầy không nói gì, chỉ nhún nhẹ đôi vai đã xệ xuống. Tình cảnh của thầy làm tôi đau xé lòng, vì không thể mời thầy đến ở cùng tôi, nhà tôi cũng khá chật. Tôi đến Sở Nhà đất và công trình công cộng xin nhà khác để có phòng riêng viết sách nhưng họ bắt chờ đến cả năm. Rõ ràng cái bếp điện có dây may-xo đã làm khổ một triết gia đang khổ hạnh. Điều đó, có lẽ Thành uỷ Thành phố HCM biết nên sau đó thầy được đưa đến ở riêng một căn nhà nhỏ, trong phạm vi Quận 1, phía Nam chợ Bến Thành, khi khách sạn Bến Nghé bị phá bỏ, cải tạo mở rộng, lớn hơn. Nhưng không lâu sau, thầy được Thành uỷ mời đến nơi ở mới của khách sạn Bến Nghé, trên đường Điện Biên Phủ, phía Quận 3. Đây là nơi ở cuối cùng của thầy ở Việt Nam trước khi thầy được qua Pháp. Nhưng lại là điều buồn đối với tôi, vì không được gặp thầy, tạm chia tay với thầy. Đó là thời gian tôi ra Huế và Quảng Bình (khi đó còn thuộc tỉnh Bình-Trị-Thiên), đi Tuyên Hoá lấy tài liệu theo con đường của ngự đoàn vua Hàm Nghi “bá thiên” tránh sự truy lùng của bọn Pháp, để viết cuốn Những ngày Cần Vương. Ngày nay nghĩ lại, tôi thấy quả là linh ứng giữa tình nghĩa thầy trò, vì trước khi ra Huế, tôi có đến tạm biệt thầy, như những lần trước từ Huế về, tôi cũng đến thăm thầy. Hôm đó, vào tháng 8/1989, khi còn ở khách sạn Bến Nghé cũ, thầy tiễn tôi ra cửa, khác mọi hôm thầy nắm tay tôi, rồi nói: “Mình chẳng sống may ra được 4 năm nữa”!

 

Chao ôi, linh nghiệm thay, năm 1993 thầy đang ở Pháp, thứ Bảy ngày 24-4-1993, lúc 20 giờ đài RFI của Pháp báo tin là giáo sư Trần Đức Thảo vừa từ trần, thọ 76 tuổi. Sáng 28-4-1993, thầy được chôn ở nghĩa trang Père La Chaise cùng các danh nhân nước Pháp. Vâng, thưa thầy vậy là đúng 4 năm, tính từ tháng 8/1989, thầy chợt nói câu nói đó và nay thầy mất là vào giữa năm 1993. Lòng tôi buồn lặng khi viết những dòng này.

 

Điều thứ hai, định không viết, nhưng đành phải viết: Những ngày ở khách sạn Bến Nghé, gặp trắc trở về sinh hoạt như thế, thầy muốn có một nơi ở cho được “độc lập, tự do”, tất phải có tiền và thuê nhà ở riêng. Mà tiền đâu để thuê nhà? Có lẽ thầy nghĩ đến căn phòng B6 khu Kim Liên, nên khi biết tôi sắp ra Huế, có thể tranh thủ ra Hà Nội, thầy đột nhiên nói với tôi: "Bán nhà đó, thầy mong được độ 2 lạng vàng, nếu được, có thêm tiền lúc qua Pháp”. Chuyện nhà cửa mua bán, nhất là “mấy lạng vàng” làm tôi phân vân. Thứ nhất tôi rất sợ vàng, thứ hai có được phép bán nhà đó không? Rồi lại bị quy là “tích luỹ tư bản” như hồi bao cấp, của công thành của tư! Có lẽ thầy cũng nghĩ như vậy, nên mấy ngày sau, tôi đến, thầy bảo thôi để nhờ người ngoài Hà Nội. Nhờ ai? Tôi rất ngại… Song vì khi tôi về lại Thành phố HCM, thầy đã qua ở nơi mới của khách sạn Bến Nghé trên đường Điện Biên Phủ rồi qua Pháp. Lại không được gặp thầy! Đến nay chuyện đó tuyệt nhiên tôi không thể biết được.

 

Chuyện thứ ba là sách, có chăng còn là di cảo? Nếu có vợ và có con thì chuyện thừa kế di cảo sách của thầy đâu có khó, mà thầy thì rõ ràng “tứ cố vô thân”! Toàn sách về triết học, đa số lại là sách ngoại ngữ. Thầy có nói với tôi là trước đây thầy có gửi tặng một số sách cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng, khi còn ở Hà Nội. Nay ở Thành phố HCM, nếu qua Pháp thầy chỉ có thể mang theo một số cùng với bản thảo sách đang viết… Thầy có nói là có thể thầy gửi người cháu, khi về Việt Nam sẽ nhận lại. Đó là việc lâu dài, vì thầy nghĩ “có ra đi, tất có ngày sẽ trở về”! Cho nên vì không được gặp thầy trước ngày thầy qua Pháp, tôi cũng không thể biết số phận những sách di cảo, một đời người trên trang giấy của thầy, nếu thầy có gửi nay ai giữ? Điều duy nhất tôi hy vọng là người cháu đã nhận. Nhưng khổ nỗi là tuy không gặp người cháu đó lần nào, tôi có ý nghĩ là họ có đến gặp thầy cũng chỉ là chuyện bất đắc dĩ trong tình thân, ruột thịt, vì hẳn họ vẫn sợ thầy về vụ Nhân văn-Giai phẩm sẽ có liên quan, nên chắc họ tránh không nhận số sách đó. Tôi lại không biết nơi ở của người cháu đó, nên “số phận di cảo triết học của triết gia Trần Đức Thảo” vẫn không nơi trú ngụ.

 

Vậy “người có lòng nhân mà tìm không ra cõi thiện”, có thể là như thế, cả với di cảo chứ nói gì đến số phận con người. Đúng là thầy “như nước đại dương kết giọt chốn không bờ”…

(Những trang này tôi trích từ những đoạn có liên quan đến thầy tôi, giáo sư Trần Đức Thảo trong hồi ký, phần “Vài chi tiết về các thầy dạy tôi ở đại học”.)

TP Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 12 năm 2006

© 2007 talawas

 Trở vế trang chủ Trần Đức Thảo