Tạp Chí Nghiên Cứu Văn Sử Địa
Số 1, 1954, Tr. 35-49

 

LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG
CỦA XÃ HỘI PHONG KIẾN VIỆT NAM

Trần Đức Thảo

 

Những hiện tượng lịch sử xuất hiện trong thượng từng kiến trúc dưới nhiều hình thái tư tưởng phức tạp: chính trị, pháp lý, tôn giáo, nghệ thuật, triết lý; nhưng tất cả những hình thái đó, xét tới cùng, là do phương thức sản xuất đời sống vật chất quy định. Vậy muốn hiểu rõ sự biến chuyển trong thượng từng kiến trúc, trước hết phải nghiên cứu sự biến chuyển vật chất trong điều kiện kinh tế của sự sản xuất, những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

 

Nghiên cứu lịch sử Việt-nam, chúng ta thấy từ ba thế kỷ nay xã hội Việt-nam trải qua những cuộc đảo lộn sâu sắc, chế độ phong kiến suy đồi, nhà Nguyễn bán nước cho giặc xâm lăng, chính sách tàn ác của bọn thực dân và cuộc cách mạng vĩ đại phản đế phản phong của nhân dân Việt-nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch, giai cấp và Đảng công nhân. Những hiện tượng này phát hiện dưới hình thức chính trị và văn hóa, nhưng nguyên nhân căn bản vẫn là cuộc đảo lộn vật chất trong đời sống kinh tế, sự đối kháng giữa những đòi hỏi phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến và thực dân phong kiến. Tất nhiên phải căn cứ vào sự đối kháng đó, thì mới đánh giá đúng những sự biến chuyển trong thượng tầng kiến trúc. Thiếu phân tích những điều kiện kinh tế, thì dẫn đi vào phương diện duy tâm, hoặc nhận những giải pháp một chiều, làm lu mờ trách nhiệm của mọi vai trò trong lịch sử.

 

Một thí dụ điển hình của phương pháp sử học duy tâm là cuốn “Việt-nam sử lược” của Trần-Trọng-Kim. Theo tác giả này, sở dĩ nước ta đã mất là vì bọn sĩ phu, nắm quyền thống <cuối trang 35> trị, lại bất lực và suy đồi, không hiểu thời thế, cứ khư khư giữ lấy thói cũ mà không chịu đi học những điều hay của thiên hạ. Tức là nếu bọn vua quan ngày xưa có tài có đức, và chịu khó đi học văn hóa Âu tây thì không đến nỗi thất bại. Nhất là, theo ý kiến của tác giả, chính phủ Pháp cũng không có ý chí xâm lăng: sở dĩ họ can thiệp vào nước ta, là vì triều đình nhà Nguyễn đã cấm đạo và giết hại những người giáo sĩ! Cuốn sách của Trần-Trọng-Kim chứng minh rằng sử học duy tâm là một vũ khí tuyên truyền cho bọn thực dân phong kiến: nước ta mất không phải là vì đế quốc xâm lược nhưng vì những sai lầm của bọn sĩ phu, mà những sai lầm này cũng không phải là do bản chất của chế độ phong kiến, nhưng chỉ vì khuyết điểm cá nhân. Tức là bây giờ cứ giữ vua quan mà theo Pháp, thì rồi cũng khôi phục cơ đồ. Đây là kết luận của Trần-Trọng-Kim: “Mai sau này, biết đâu mà con cháu nhà Hồng Lạc ta lại không có ngày nhờ nước Pháp mà được vẻ vang với thiên hạ hay sao?”. Lý tưởng của tác giả đó đã được thực hiện với cái độc lập giả hiệu của bọn bù nhìn bán nước.

 

Tất nhiên bọn sĩ phu đã phạm phải sai lầm trầm trọng, nhưng những sai lầm ấy không phải chỉ là hiện tượng cá nhân: mà bắt nguồn trong tình trạng suy tàn của chế độ phong kiến. Chính cái chế độ ấy đã đưa dân tộc đến chỗ nô lệ vì một giai cấp thống trị đã thối nát đến thế, mà lại gặp quyết chí xâm lăng của thực dân Pháp thì tự nhiên là đầu hàng.

 

Nhưng đây cũng phải tránh những quan niệm một chiều. Có nhà sử học, lên án chế độ phong kiến, lại bao gồm toàn bộ xã hội Việt-nam dưới thời phong kiến, và kết luận rằng với một xã hội suy tàn như thế, thì sự thất bại là tất nhiên, không thể nào tránh khỏi. Những tác giả này đã hướng về một hình thái định mệnh chủ nghĩa, vì thiếu phân tích những điều kiện kinh tế thực tại, vậy chỉ thấy chế độ phong kiến thối nát, và bỏ qua những khả năng phát triển và đấu tranh của xã hội dưới chế độ ấy. Vì thực ra thì xã hội là xã hội của nhân dân, do nhân dân lao động tạo ra, vậy chúng ta không thể nào lẫn lộn chế độ phong kiến áp bức bóc lột và xã hội bị phong kiến áp bức bóc lột. Có thể là cuộc suy tàn của chế độ phong kiến <cuối trang 36> đi đôi với một cuộc khủng hoảng phát triển của xã hội Việt-nam. Những hiện tượng thối nát trên thượng từng kiến trúc là do ở phong trào phản động cố gắng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, vậy cũng có thể chứng minh rằng những lực lượng này có khả năng phát triển dồi dào. Ví dụ như chế độ phong kiến Pháp thế kỷ thứ XIV đã đi vào con đường suy, tức là quan hệ bóc lột tô căn bản đã đối kháng với đòi hỏi phát triển của lực lượng sản xuất, xã hội Pháp trải qua một cuộc khủng hoảng trầm trọng, nhưng đến thế kỷ thứ XV, những lực lượng sản xuất lại được phát triển, tuy vẫn đóng khung trong phạm vi phong kiến. Vậy trong thời kỳ chế độ phong kiến Việt-nam suy tàn, chưa chắc gì xã hội Việt-nam đã có thể coi là suy tàn. Muốn nhận định rõ về vấn đề này, cần phải quan sát tình hình kinh tế, tương quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

 

Hai thế kỷ XVIII và XIX là hai thế kỷ khủng hoảng, giai cấp phong kiến càng ngày càng trụy lạc, nông dân luôn luôn nổi dậy. Mâu thuẫn sâu sắc đã xuất hiện trong phương thức sản xuất phong kiến: quan hệ sản xuất phong kiến, trước đây là hình thái phát triển của lực lượng sản xuất, đã trở thành những dây ràng buộc, cản trở những lực lượng ấy. Sự đối kháng này có thể đưa đến hai kết quả khác nhau. Một là những quan hệ phản động bóp nghẹt và đi đến chỗ thủ tiêu lực lượng sản xuất, phong trào quần chúng bị tê liệt, nhân dân không còn sức mà khởi nghĩa, xã hội đi vào con đường tan rã. Nhiều nước Ả-rập và Ấn-độ đã xa vào tình trạng này. Một trường hợp thứ hai là những lực lượng sản xuất tuy bị cản trở, nhưng vẫn tỏ năng lực phát triển, phong trào quần chúng lên cao, nhân dân lao động nổi dậy tìm đường giải phóng. Trong xã hội Việt-nam thế kỷ XVIII, XIX, không thể nói rằng những lực lượng sản xuất đã bị thủ tiêu, hay phong trào quần chúng đã bị tê liệt. Trái lại, nông dân luôn luôn khởi nghĩa, và những cuộc khởi nghĩa đó thể hiện những khả năng phát trỉên của xã hội Việt-nam trong lúc chế độ phong kiến suy tàn. Mà sở dĩ <cuối trang 37> giai cấp phong kiến càng ngày càng thối nát, cũng là vì lực lượng của nhân dân đương lên.

 

Tuy nhiên nước ta ngày ấy chưa có yếu tố tư bản chủ nghĩa. Mà đây lại có cái lập luận rằng vì chưa có giai cấp tư bản dân tộc lãnh đạo, cách mạng nông dân Việt-nam cứ phải đi đường vòng trong phạm vi phong kiến. Tức là một triều xuống thì một triều khác lên, nhưng chế độ vẫn là chế độ phong kiến. Vậy trước sự xâm lược của bọn tư bản thực dân, nước ta không thể nào chống nổi. Vì theo quy luật lịch sử chế độ phong kiến phải nhường chỗ cho chế độ tư bản, mà trong nước lại không có điều kiện để làm một cuộc cách mạng tư bản, vậy mất nước là lẽ dĩ nhiên – Nhưng đây mới là suy luận một cách chung chung. Phân tích cụ thể thì thấy rằng tình hình nước ta lúc bấy giời không đên nỗi bi quan như thế. Tuy chưa có yếu tố tư bản chủ nghĩa, xã hội Việt-nam vẫn có khả năng phát triển, tức là cải lương một phần nào phương thức sản xuất phong kiến. Những khả năng ấy kết hợp với điều kiện thực tại của thị trường thế giới, có thể mở đường giải phóng.

 

Phương thức sản xuất phong kiến nói chung bao gồm bốn bộ phận: kinh tế điạ chủ bóc lột tô, kinh tế nông dân tư hữu, thủ công thương nghiệp tư nhân và thủ công thương nghiệp nhà nước phong kiến. Bộ phận địa chủ là chủ yếu. Bộ phận nông dân tư hữu là cơ sở của thị trường hàng hóa. Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp tiểu quy mô căn bản là tự túc tự cấp, nhưng nông phẩm của nông dân tư hữu một phần nào cũng được mang ra thị trường, đổi lấy sản phẩm thủ công. Tức là kinh tế nông dân tư hữu là nguồn phát triển của thủ công thương nghiệp tư nhân. Giai cấp điạ chủ phá hoại nông nghiệp tư hữu, đồng thời củng cố tổ chức tự túc tự cấp trong phạm vi đồn điền hoặc thôn xã, vậy quan hệ bóc lột tô nói chung là mâu thuẫn với quan hệ trao đổi hàng hóa. Kinh tế hàng hóa trong phạm vi phong kiến chưa phải là kinh tế tư bản chủ nghĩa: nó chỉ được xây dựng trên cơ sở sản xuất tiểu quy mô của người lao động tư hữu và bị ràng buộc <cuối trang 38> trong hạn giới hẹp hòi của những phường chuyên môn và tập quán địa phương chủ nghĩa. Những phường chuyên môn cũng phải tính là tổ chức phong kiến, mà cách mạng tư bản sẽ phá bỏ. Phải có những điều kiện đặc biệt trong nước và ngoài nước thì kinh tế hàng hóa đơn giản của xã hội phong kiến mới biến chất và chuyển sang chủ nghĩa tư bản. Nhưng trước thời đại tư bản chủ nghĩa, quan hệ hàng hóa đơn giản đã là hình thái phát triển của lực lượng sản xuất nông nghiệp tiểu quy mô và thủ công nghiệp. Đó là đường lối tiến bộ của xã hội phong kiến, làm yếu thế một phần nào bộ phận kinh tế địa chủ và uy quyền của giai cấp phong kiến. Tuy nhiên quan hệ bóc lột tô vẫn là chủ yếu. Mà vì chế độ phong kiến bảo đảm vai trò chính cho bộ phần kinh tế điạ chủ, chúng ta cũng có thể nói rằng, sau thời kỳ phát đạt của kinh tế thái ấp, quan hệ sản xuất của xã hội phong kiến nói chung cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng trong toàn bộ quan hệ ấy cũng có một bộ phần tương đối tiến bộ, tức là bộ phận trao đổi hàng hóa. Nhưng bộ phận này lại bị ràng buộc vào những tập quán chuyên môn địa phương chủ nghĩa và phụ thuộc vào bộ phận bóc lột tô. Và trước khi những điều kiện đặc biệt làm cho kinh tế hàng hóa đơn giản chuyển hướng và xây dựng những yếu tố tư bản chủ nghĩa, xã hội phong kiến nói chung không thoát khỏi cái ách thống trị của bộ phận kinh tế địa chủ bóc lột tô.

 

Trong thời kỳ suy đồi của chế độ phong kiến, tức là sau thời thịnh hành của tổ chức thái ấp, mâu thuẫn giữa kinh tế hàng hóa và kinh tế điạ chủ càng ngày càng sâu sắc, phản ảnh mâu thuẫn căn bản giữa những đòi hỏi phát triển của lực lượng sản xuất nông nghiệp tiểu quy mô và thủ công nghiệp và quan hệ bóc lột tô. Một mặt thì lực lượng sản xuất nông nghiệp phát triển, củng cố bộ phận kinh tế nông dân tư hữu, nâng cao nhu cầu thị trường, thúc đẩy công thương nghiệp tư nhân, gây mầm phát triển ngọai thương. Một mặt khác thì điạ chủ bóc lột tô tức, chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, nhà nước phong kiến trưng dụng thợ thủ công, hạn chế ngoại thương. Đến một giai đoạn nào đấy, điạ chủ tập trung ruộng đất, nhưng lại không có <cuối trang 39> khả năng phát triển sản xuất, nông dân tư hữu bị phá sản, nông nghiệp bị kìm hãm, nhu cầu thị trường càng ngày càng rút hẹp, thủ công thương nghiệp tư nhân mất cơ sở kinh tế, đồng thời bị tổ chức thủ công nghệ quan liêu lũng đoạn, ngoại thương bị cấm chế, kinh tế hàng hóa bế tắc.

 

Đó là hoàn cảnh khủng hoảng điển hình trong xã hội phong kiến suy đồi. Hoàn cảnh ấy thực hiện trong lịch sử ta vào cuối nhà Trần, cuối thời Lê sơ, thời Lê mạt và dưới triều nhà Nguyễn. Gặp những giai đoạn này, sử cũ nêu những hiện tượng tản nát theo quan điểm phong kiến: triều đình thối nát, dân đói rách lưu vong, “giặc cướp” nổi lên khắp nơi. Nhưng đây chỉ là mô tả sự việc một cách hời hợt. Những thời ấy là thời suy tàn của chế độ phong kiến, nhưng cũng là thời đấu tranh kịch liệt của nhân dân, thời phôi thai của xã hội. Những cuộc nông dân khởi nghĩa, mà sử cũ chép là “giặc cướp”, chứng minh rằng những lực lượng sản xuất bị kìm hãm nhưng chưa bị thủ tiêu, xã hội Việt-nam còn khả năng phát triển. Những đám đông nông dân lưu vong là những sức lao động không được sử dụng và đòi hỏi một sự thay đổi trong xã hội.

 

Tất nhiên nước ta ngày ấy chưa có điều kiện làm một cuộc cách mạng tư bản chủ nghĩa, nhưng không phải vì thế mà hoàn toàn không có giải pháp. Những lực lượng sản xuất cần được giải phóng đây chưa phải là lực lượng tư bản chủ nghĩa, nhưng mới là lực lượng nông nghiệp tiểu quy mô và thủ công nghiệp. Vậy vấn đề chưa phải là đánh đổ chế độ phong kiến nhưng mới là khôi phục bộ phận kinh tế nông nghiệp tư hữu, và mở đường cho kinh tế hàng hóa đơn giản. Thực tế trong lịch sử Việt-nam, những triều mới lên sau một cuộc khủng hoảng của xã hội phong kiến, cũng có giải quyết một phần nào vấn đề ruộng đất cho nông dân và phát triển thủ công thương nghiệp.

 

Ví dụ như Lê-Lợi, sau khi giải phóng tổ quốc, đã tịch thu ruộng đất mà bọn việt gian đi làm quan cho nhà Minh, hoặc bọn cường hào gian ác nhờ thời thế rối loạn đã chiếm đoạt. Những <cuối trang 40> ruộng này, cùng với những ruộng địa chủ bỏ hoang, được sung làm của công, một phần thì phong cho bọn công thần và quan liêu, nhưng một phần cũng mang ra quân cấp cho quân lính và nông dân. Trên cơ sở nông nghiệp tư hữu được khôi phục, công thương nghiệp cũng được phát triển. Xã hội Việt-nam lại được một thời tương đối thịnh.

 

Tuy nhiên, mâu thuẫn căn bản giữa những đòi hỏi phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vẫn duy trì và càng ngày càng đảo lộn xã hội phong kiến. Họ Trịnh lên nghiệp chưa phát triển công thương nghiệp và mở rộng ngoại thương. Nhưng địa chủ vẫn tập trung ruộng đất bằng những cuộc xâm lăng. Nhưng phương pháp vô lý này lại càng đào sâu mâu thuẫn trong xã hội và đưa đến cuộc khởi nghĩa vĩ đại của nông dân dưới sự lãnh đạo của anh em Tây-sơn.

 

Phong trào Tây-sơn lúc đầu là một phong trào đánh đổ bọn cường hào ác bá ở các thôn ấp, lấy của của chúng để chia cho dân nghèo. Sau này Nguyễn-Huệ lên cầm quyền cũng thi hành một chính sách “Khuyến nông” có lợi cho nhân dân. Những ruộng của bọn việt gian phản động theo nhà Thanh và chống triều mới và những ruộng công tư bỏ hoang được mang ra chia cho nông dân lưu ly. Trên cơ sở nông nghiệp được phục hồi, công thương nghiệp phát triển và đòi hỏi mở rộng ngọai thương: Nguyễn-Huệ cho người sang điều đình với triều Thanh để mở chợ ở Cao-bằng và Lạng-sơn và lập nhà hàng ở Quảng-tây.

 

Tất nhiên đây chỉ là những việc cải lương, chưa thực hiện một sự thay đổi căn bản trong chế độ phong kiến. Nhưng không phải vì thế mà có thể phủ nhận hoàn toàn bước tiến của xã hội Việt-nam thời Tây-sơn. Kết hợp với sự phát triển của thị trường thế giới vào thế kỷ XIX, bước tiến đó cũng có thể gây điều kiện để thoát khỏi chế độ phong kiến. Kinh tế hàng hóa đơn giản, phát triển trên cơ sở nông nghiệp tiểu quy mô trong một nước phong <cuối trang 41> kiến, không ra ngoài tổ chức hẹp hòi của các phường chuyên môn địa phương chủ nghĩa. Nhưng kết hợp với những nhu cầu lớn lao của thị trường quốc tế, nó đưa đến tổ chức sản xuất đại quy mô với những chủ tư bản tập trung tư liệu sản xuất và thuê nhân công “tự do”. Tất nhiên những nhu cầu của thị trường quốc tế cũng cần gặp một nên thủ công và thương nghiệp đơn giản đã được phát triển trong phạm vi phong kiến, mới có thể gây những yếu tố tư bản chủ nghĩa. Phải kết hợp điều kiện trong nước và ngoài nước mới vượt qua được những hạn giới hẹp hòi của phương thức sản xuất phong kiến. Ví dụ như nước Anh thế kỷ XV, đã có một nền kinh tế hàng hóa đơn giản quan trọng, phát triển trên cơ sở nông nghiệp tư hữu phồn thịnh. Kết hợp với những đòi hỏi dồi dào của thị trường lục địa Âu châu và sự mở mang của thị trường thế giới, đầu thế kỷ XVI, kinh tế hàng hóa đơn giản ấy đã biến chất và phát sinh những công trường thủ công tư bản chủ nghĩa, trong đó tư liệu sản xuất đều là của chủ tư bản và công nhân hai bàn tay trắng chỉ là người bán sức lao động.

 

Ở bên ta, thương mại với Âu tây đã bắt đầu mở mang vào thế kỷ XVII, nhưng bấy giờ nhu cầu quốc tế còn thấp kém, vậy ảnh hưởng cũng chỉ là gây một số mại bản ở một vài phố chợ như Hội-an hay Phố-hiến. Một vài công trường thủ công được sáng lập nhưng lại bị hãm trong tổ chức quan liêu của nhà nước phong kiến. Nhưng đến thế kỷ XIX, thị trường thế giới phát triển mạnh mẽ. Không thể nghi ngờ rằng nước ta, nếu có một bộ phận kinh tế hàng hóa đơn giản được phát triển trong phạm vi phong kiến, cũng có thể sát nhập vào luồng thương mại quốc tế, biến chất và xây dựng một bộ phận sản xuất tư bản chủ nghĩa. Để mở hải cảng cho ngoại thương, không cần đến một giai cấp tư sản dân tộc, chỉ cần có một bộ phận kinh tế thủ công thương nghiệp phát triển khá trong phạm vi phong kiến: bằng chứng là bọn Trịnh Nguyễn, ngày còn tương đối mạnh, cũng không ngăn cản bọn lái buôn ngoại quốc. Mà đến lúc Quang Trung khôi phục nền sản xuất phong kiến, thủ công thương nghiệp được <cuối trang 42> phát triển lại đưa ngay đến chỗ mở rộng ngoại thương. Và một khi đã nhập vào thị trường thế giới, với những yếu tố tiểu tư bản sẵn có trong nước (mỏ, đại thương) kết hợp với những đòi hỏi dồi dào của thương mại quốc tế thế kỷ XIX, xã hội Việt-nam tất nhiên phải phát sinh một giai cấp tư sản dân tộc.

 

Nhưng lịch sử đã đi một con đường khác hẳn. Triều Tây-sơn chưa ổn định xong mọi vấn đề nội bộ, thì Nguyễn Ánh đã nhờ tư bản Pháp mà về cướp nước. Muốn đánh giá đúng vai trò nhà Nguyễn, cần phải xét đến cơ sở quyền lợi và nội dung giai cấp. Nguyễn-Ánh là đại biểu cho từng lớp phản động trong giai cấp phong kiến. Hai phe đối lập tất nhiên đều có tính chất phong kiến, nhưng trong phạm vi phong kiến cũng có bên cấp tiến, bên phản động. Bọn quan liêu theo Tây-sơn nói chung là một lớp người mới. Tất nhiên họ bảo vệ quan hệ bóc lột tô, nhưng đồng thời họ dại diện cho quyền lợi mà nông dân đã thu được lúc mới khởi nghĩa và sau này với chính sách khuyến nông của Quang-Trung, và họ cũng đại diện cho công thương nghiệp mới được phát triển. Lẽ dĩ nhiên họ gặp sự đối kháng của lớp địa chủ và quan liêu cũ. Bọn này là bọn đã sẵn sang theo giặc Thanh, và đến lúc Quang-Trung, dựa vào nhân dân, thành công cứu nước, chúng lại chạy tìm Nguyễn-Ánh. Cứ xét tương quan lực lượng trong nước thì chưa chắc gì phe phản động nhà Nguyễn đã thắng. Sau khi Nguyễn-Ánh tổ chức đất Gia-định, cuộc chiến đấu ở vùng Quy-nhơn cũng còn kéo dài ngót 10 năm. Sự ủng hộ tích cực của bọn tư sản Pháp đã làm lệch cán cân. Giai cấp tư sản Pháp bấy giờ đương bận ở Âu châu, vả lại cũng mới mất Ấn độ, vậy không có điều kiện đi xâm chiếm nước ta. Nhưng chúng đã kịp thời ngăn cản bước tiến của nhân dân Việt-nam. Chúng lợi dụng cuộc đấu tranh giữa hai phe phong kiến để đưa phe phản động lên cầm quyền, gây dựng một triều yếu ớt vì ngay từ đầu đã hòan toàn đối lập với quyền lợi của nhân dân. Đây là một âm mưu sảo quyệt để chuẩn bị cho cuộc xâm lăng vài chục năm về sau. <cuối trang 43>

 

Vì vậy mà suốt thời nhà Nguyễn, lực lượng của nhân dân phát triển chừng nào, thì bọn vua quan lại phản động và ngoan cố chừng ấy. Sở dĩ bọn chúng đã thi hành triệt để chính sách bế quan tỏa cảng, gạt bỏ mọi đề nghị duy tân là vì uy thế của chúng trong nước càng ngày càng lung lay, vậy bất kỳ một sự thay đổi nào cũng có thể thành một mối đe doạ cho chúng. Đại biểu thuần túy của giai cấp phong kiến, chúng không quan niệm có thể nhượng bộ một phần quyền lợi nào để mở đường thoát cho nhân dân. Chúng đã giữ thái độ bảo thủ cực độ, không phải vì không trông thấy những đòi hỏi hiển nhiên của thời thế, mà cũng không phải vì thành kiến nho giáo, nhưng chính vì cơ sở giai cấp hẹp hòi làm cho chúng chỉ chăm lo đề phòng và đàn áp những cuộc khởi nghĩa liên tiếp của nông dân.

 

Năm 1861, chính phủ Pháp chiếm đóng Nam-bộ, lực lượng thực dân cũng chỉ có mấy ngàn người, không quen với thuỷ thổ, chưa chắc gì đã chịu đựng nổi một cuộc chiến đấu lâu dài. Nhưng ngay năm sau, 1862, bọn vua quan nhà Nguyễn đã hấp tấp đầu hàng, để rảnh tay khủng bố phong trào nông dân đương nổi dậy ở Bắc-bộ. Đứng giữa hai nguy cơ, chúng đã chọn con đường cấu kết với giặc ngoại xâm để bảo vệ quyền áp bức bóc lột nhân dân.

 

Phong trào Bắc-bộ ngày ấy có nhiều khuyết điểm về phần lãnh đạo. Nhưng căn bản đó là những cuộc khởi nghĩa của nông dân, và trong quá trình phát triển cũng có thể chấn chỉnh tổ chức. Những cuộc khởi nghĩa ấy chứng minh rằng đứng về phương diện nhân dân xã hội Việt-nam ngày ấy không thiếu gì lực lượng chiến đấu. Mà sự khủng bố dã man của triều đình lại là một dẫn chứng rằng chính giai cấp phong kiến cũng chưa phải là đã hết khả năng kháng cự. Nhưng những khả năng này lại bị tập trung vào việc đàn áp nhân dân, vì bọn phong kiến thống trị sợ nhân dân Việt-nam nhiều hơn là thực dân Pháp. Không những chúng đã khủng bố phong trào nông dân Bắc-bộ, mà chúng lại còn giúp cho giặc Pháp đàn áp nhân dân Nam-bộ nổi dậy để bảo vệ Tổ quốc trong khi triều đình đầu hàng. <cuối trang 44>

 

Đứng về lập trường của chúng, thái độ đó không phải là không có lý do. Mâu thuẫn trong nước giữa những đòi hỏi phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ bóc lột tô đã đi đến cực độ. Mâu thuẫn đó thúc đẩy phong trào nhân dân đánh đổ triều nhà Nguyễn để cải lương một phần nào phương thức sản xuất phong kiến, tức là phục hồi bộ phận kinh tế nông dân tư hữu và mở đường phát triển cho thủ công thương nghiệp và thương mại quốc tế. Những yêu cầu này không ra ngoài phạm vi phong kiến, nhưng một khi được thực hiện thì tạo điều kiện để gây một nền sản xuất mới. Kinh tế hàng hoá đơn giản được phát triển với những yếu tố tiền tư bản đã có lúc bấy giờ trong xã hội Việt-nam, đặc biệt là tư bản thương mại, mà lại sát nhập vào thị trường thế giới, thì có thể biến chất và chuyển sang chủ nghĩa tư bản. Một giai cấp tư sản dân tộc nẩy nở lúc bấy giờ, dù không thủ tiêu được hoàn toàn quan hệ bóc lột tô, thì cũng có thể nắm chính quyền, chiếm ưu thế trong xã hội, bảo vệ độc lập dân tộc và mở đường cho giai cấp công nhân nổi dậy lãnh đạo nhân dân giải phóng xã hội. Nhưng giai cấp phong kiến, do triều Nguyễn đại diện, đã lợi dụng kịp thời cuộc xâm lăng của thực dân Pháp để cứu vớt địa vị thống trị trong nước bằng cách đầu hàng giặc ngoại xâm.

 

Xét lại hoàn cảnh khách quan và nội dung quyền lợi giai cấp, thì thái độ ấy là tất nhiên. Mà do đó thì nước ta cũng tất nhiên là bị chinh phục. Nhưng cái tất nhiên đây bao gồm những trách nhiệm cụ thể. Vì trong sự thất bại tất nhiên của dân tộc, cũng có những khả năng chiến đấu và phát triển của nhân dân, mà hành động phản quốc của giai cấp phong kiến thống trị cùng với thủ đoạn xâm lược của thực dân Pháp đã có trách nhiệm phá hoại.

 

Nhiệm vụ của sử học không phải là đặt giả thuyết. Không thể nào đặt câu hỏi: nếu không có nhà Nguyễn bán nước, thì nền độc lập dân tộc có giữ được không, hay nếu không có thực dân Pháp, thì có một nước tư bản nào khác đến xâm chiếm không. Những sự việc đã xảy ra trong lịch sử đều là theo quy luật nhất định, vậy xuất hiện một cách tất nhiên. <cuối trang 45> Nhưng sử học có nhiệm vụ nhận xét những sự việc tất nhiên đó cụ thể là như thế nào, và do ở những trách nhiệm nào. Chúng ta không thể nói một cách chung chung rằng với một chế độ phong kiến thối nát và không có một giai cấp tư sản dân tộc lãnh đạo, một mặt khác với những nhu cầu thị trường và nguyên liệu của tư bản Âu tây thế kỷ XIX, thì nước ta tất nhiên là bị chinh phục. Vì đấy là áp dụng quy luật lịch sử một cách máy móc và đưa đến chỗ hiểu lầm rằng giai cấp phong kiến thống trị đã đầu hàng vì yếu quá, vậy bắt buộc phải ký kết với thực dân. Tức là nếu không có nhà Nguyễn thì một triều khác cũng đi đến chỗ ấy, mà không có thực dân Pháp thì nước ta cũng lại bị một đế quốc nào khác đến xâm chiếm mà thôi. Những giả thuyết này đẫ được đề ra trong một số tác phẩm. Nghĩa là quan niệm “tất nhiên” của khoa học lịch sử đây đã biến thành một hình thức định mệnh chủ nghĩa.

 

Để tránh những giả thuyết nói trên, cần phải vạch rõ cái ý nghĩa cụ thể của mỗi vai trò trong lịch sử. Sự đầu hàng của nhà Nguyễn không phải là một sự bất đắc dĩ, nó là một hành động bảo vệ quyền lợi giai cấp: quy phục trước giặc ngoại xâm để mang quân đi đàn áp nông dân. Muốn đánh giá đúng cái hành động đó, thì phải nhận định cái tác hại của nó đã đi đến đâu, tức là nhận định những khả năng thực tế của phong trào nhân dân và xã hội Việt-nam bấy giờ. Đành rằng nước ta bấy giờ chưa có một giai cấp tư sản dân tộc lãnh đạo, nhưng kinh tế hàng hoá đơn giản nếu được phát triển trong phạm vi phong kiến, với những yếu tố tiền tư bản sẵn có, như tư bản thương mại, và kết hợp với những đòi hỏi của thị trường thế giới, có thể biến chất và chuyển sang chủ nghĩa tư bản. Chữ “nếu” đây không có nghĩa là chúng ta giả sử rằng không có triều Nguyễn. Sự thực là triều Nguyễn đã có trong lịch sử, vậy không thể nào giả sử là không có. Chữ “nếu” đây chỉ dùng để nhận xét cụ thể về những khả năng tiến triển của xã hội Việt-nam lúc bấy giờ. Những khả năng đó không phải là giả thuyết, mà là những khả năng thực tế có thể suy luận từ điều kiện khách quan và <cuối trang 46> theo quy luật tiến hoá của xã hội phong kiến. Những khả năng này tuy không được thực hiện, nhưng cũng là yếu tố thiết thực trong lịch sử. Bằng chúng là nó đã có ảnh hưởng thực tế vào thái độ của giai cấp thống trị: sở dĩ bọn phong kiến không chịu duy tân là vì chúng thấy rõ rằng nếu để công thương nghiệp phát triển và sát nhập vào luồng thưong mại quốc tế thì tất nhiên chúng sẽ bị lật đổ. Và sau cùng sự phản bội của nhà Nguyễn cũng chỉ là một thủ đoạn tuyệt vọng để ngăn cản con đường tiến bộ đó.

 

*

*   *

 

Một khi bọn phong kiến thống trị đã phản bội, những quyền lợi của giai cấp phong kiến kết hợp khăng khít với quyền lợi của thực dân. Thực chất của bản hiệp ước mùng 5 tháng 6 năm 1862 là đặt mối liên minh giữa giai cấp phong kiến Việt-nam với thực dân Pháp để cùng nhau áp chế nhân dân Việt-nam. Sau đây bọn phong kiến thống trị chỉ còn có tiếp tục đàn áp phong trào nhân dân, để chờ đợi cho thực dân Pháp đến chiếm đóng toàn bộ đất đai và đặt một chế độ mới thực hiện cái giao ước liên minh đó. Giai cấp phong kiến Việt-nam đã hết vai trò dân tộc, vì trong xã hội thực dân phong kiến, không thể nào còn xuất hiện được một phe phong kiến tiến bộ, đại diện cho khả năng phát triển của dân tộc trong phạm vi phong kiến. Những quan hệ sản xuất trong hệ thống mới quy định rõ ràng vai trò còn lại của giai cấp phong kiến Việt-nam.

 

Quan hệ tư bản thực dân sát nhập vào xã hội Việt-nam không đụng chạm gì đến quan hệ bóc lột tô. Trái lại, những quan hệ này được cũng cố nhờ bộ máy cai trị mới, tình hình tập trung ruộng đất càng ngày càng trầm trọng, một tầng lớp địa chủ thực dân phát hiện, tăng cường chế độ bóc lột phong kiến. Xét bề ngoài thì chế độ tư bản, xuất cảng sang thuộc địa, đã mất hết tính chất cách mạng, vậy sẵn sàng cùng tồn tại với chế độ phong kiến. Nhưng phân tích cụ thể thì thấy rằng sự cấu kết lại chặt chẽ hơn nhiều. Hai mối quan hệ đòi hỏi nhau để củng cố lẫn nhau. <cuối trang 47>

 

Chế độ thực đân đã đặt ở bên ta độc quyền thị trường và tư bản kinh doanh. Sự thành lập quan hệ tư bản chủ nghĩa ở Âu châu trước kia đã phải trải qua một cuộc đấu tranh gay go chống chế độ phong kiến để đảm bào quyền tự do kinh doanh. Nhưng trong một nước thuộc địa, bọn thực dân nắm quyền thống trị, không những có tự do mà còn chiếm độc quyền kinh doanh tư bản. Vậy chúng không gặp khó khăn gì có thể cản trở chúng trong chế độ phong kiến. Trái lại, kinh tế địa chủ, làm cho nông dân phá sản, cung cấp nhân công rẻ tiền cho bọn tư bản thực dân, bảo đảm cho chúng lợi nhuận tối đa. Mà vì kinh doanh tư bản thực dân đòi hỏi lợi nhuận tối đa, vấn để tranh ruộng với địa chủ cũng không đặt ra. Bọn thực dân có mở một vài đồn diền cao su hay cà phê, nhưng về phần nông nghiệp cựu truyền thì chúng không thể nào đặt vấn đề tư bản hoá vì việc nầy không bảo đảm cho chúng lợi nhuận tối đa. Vậy kinh tế tư bản thực dân không thể nào lấn vào kinh tế điạ chủ phong kiến. Trái lại pháp lý tư bản,căn cứ vào hình thức giao ước cá nhân, bảo đảm cho quan hệ bóc lột tô tức một hình thái chính xác, vững chắc hơn hình thái cựu truyền.

 

Quyền lợi thực dân và phong kiến lại càng phù hợp hơn trong vấn đề độc quyền thị trường. Để chiếm độc quyền thị trường, bọn thực dân cần phải bóp nghẹt những nghề thủ công Việt-nam. Kinh tế địa chủ phong kiến đã giúp nhiều cho việc này, vì cơ sở kinh tế của thủ công nghiệp là nông nghiệp tư hữu, mà giai cấp địa chủ lại chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, tức là phá hoại cái nguồn phát triển của thủ công nghiệp. Trái lại, bọn thực dân lấn át những nghề thủ công lại giúp cho địa chủ tập trung ruộng đất, vì những gia đình thợ thủ công thương cũng đã có ruộng, mà lúc nghề thủ công bị phá sản, họ lại phải vay lãi của địa chủ và gán ruộng đất. Nói một cách rộng rãi hơn, công thương nghiệp dân tộc, với hai bộ phận của nó, tức là thủ công thương nghiệp cựu truyền và công thương nghiệp tư bản dân tộc, gặp mâu thuẫn sâu sắc với quyền lợi của bọn thực dân cũng như với quyền lợi của giai cấp địa chủ. Sự phát triển của công thương <cuối trang 48> nghiệp Việt-nam một mặt là đối lập với cái độc quyền thị trường mà bọn thực dân cần phải đặt ở đất thuộc địa, một mặt khác thì làm mất ưu thế kinh tế của giai cấp địa chủ trong nước. Tức là nếu công thương nghiệp dân tộc phát triển thì địa chủ mất địa vị chủ yếu trong toàn bộ nền kinh tế quốc gia.

 

Tóm lại, kinh tế địa chủ và kinh tế thực dân cùng nhau đối lập với công thương nghiệp dân tộc Việt-nam cũng như nông nghiệp, tức là đối lập với toàn bộ nền sản xuất quốc dân. Vậy thực dân và phong kiến cần phải liên minh một cách chặt chẽ. Một mặt thì giai cấp phong kiến bảo đảm cho thực dân độc quyền thị trường bằng cách phá hoại bộ phận kinh tế nông dân tư hữu, cơ sở kinh tế của công thưong nghiệp dân tộc. Đồng thời nông dân phá sản là một nguồn nhân công rẻ tiền cho tư bản thực dân kinh doanh. Độc quyền thị trường và nhân công rẻ bảo đảm lợi nhuận tối đa cho thực dân. Ngược lại thực dân bảo đảm cho giai cấp phong kiến ưu thế kinh tế trong nước bằng cách phá hoại công thương nghiệp dân tộc Việt-nam. Mà nhờ ưu thế kinh tế, giai cấp phong kiến cũng duy trì ưu thế chính trị, tức là giữ được quyền thống trị trong nước dưới sự bảo hộ của bọn thực dân. Đây là ý nghĩa của hai chữ “bán nước”. Sự cấu kết giữa phong kiến và thực dân bắt nguồn trong cơ cấu căn bản của xã hội cũ. Ngay từ ngày còn thống trị một nước độc lập, giai cấp phong kiến đã không ngần ngại gì mà dựa vào giặc ngoại xâm để chống nhân dân. Bán nước xong thì chúng đóng vai trò tay sai trung thành cho đế quốc thực dân. Đến lúc nhân dân nổi dậy giải phóng tổ quốc, thì chúng lại làm gián điệp cho giặc để cố lập lại cái địa vị cũ. Giai cấp phong kiến không bao giờ bỏ đế quốc, nhưng nhân dân Việt-nam, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ chủ tịch, Đảng và Chính phủ, đã nắm vững đường lối cách mạng, đấu tranh đồng thời chống địa chủ phong kiến và đế quốc xâm lược, vậy nhất định sẽ thắng lợi hoàn toàn.

 

TRẦN-ĐỨC-THẢO