PHAN KHÔI: TÁC PHẨM ĐĂNG BÁO 1928                      

 

Một bài vận văn rất có giá trị về lịch sử:
Hà Nội Chánh khí ca

Năm Tự Đức thứ 35 (1882) là năm Nhâm Ngọ, cách nay 48 năm, Hà Nội thất thủ, quan tổng đốc bấy giờ là cụ Hoàng Diệu tử tiết. Sau khi cụ thác mấy ngày thì ở Hà Nội có bài nầy truyền ra; và người ta đọc lại đọc đi cho đến bây giờ.

Trước khi Văn Thiên Tường chết theo nhà Tống, có đặt một bài ca gọi là Chánh khí ca, kể sự mình giúp vua nhà Tống không thành công và phải chết, chớ không chịu hàng nhà Nguyên. Hà Nội Chánh khí ca là do nghĩa đó và nói việc xảy ra ở Hà Nội.

Bài nầy, theo người ta nói, của ông Ba Giai là một nhà văn sĩ ở Hà Nội lúc bấy giờ làm ra.

Một bài văn đã hay lại có quan hệ nhiều về lịch sử, mà xưa nay chưa được in ra, thì chắc truyền không được rộng, và có ngày sẽ mất đi, là ngày nếu người ta quên nó ráo. Vì nghĩ như vậy chúng tôi mới đem đăng báo để truyền lại cho đời sau một cái sử liệu.

Trong bài nầy có một vài chỗ nói lời quá đáng, song chúng tôi cũng cứ để y nguyên văn, không đẽo gọt chút nào cả; chúng tôi tưởng để y như vậy chẳng những vô hại, mà lại nhơn đó được biết tâm lý của người mình lúc bấy giờ đối với nước Pháp thế nào.

Những chỗ nào trong bài cần phải chú thích thì chúng tôi sẽ chú thích ra đây. Không dám nói là đã tường tận, song chỉ biết được chừng nào thì chú thích chừng nấy.

                                                                                                                                 C.D. cẩn chí

Một vừng chánh khí lưu bình,

Rộng trong trời đất, nhựt tinh sơn hà,

Hạo nhiên ở tại người ta,

Tấc vuông son sắt hiện ra khi cùng.(1)

Nên thua theo vận truân phong,

Ngàn thu rạng tiếng anh hùng sử xanh.

Có quan tổng đốc Hà Ninh

Hiệu là Quang Viễn, trung trinh ai bằng? (2)

Lâm nguy, lý hiểm đã từng,

Vâng ra trọng trấn mới chừng ba năm.

Thôn hồ dạ những chăm chăm,

Ngoài tuy giao thiệp, trong căm những là...

Vừa năm Nhâm Ngọ, tháng ba,

Rạng ngày mồng tám, mới qua giờ thìn,

Biết cơ trước đã giữ gìn,

Hơn trăm võ sĩ, vài nghìn tinh binh.(3)

Tiên nghiêm lên đóng trên thành,

Thệ sư (4) rót chén rượu quỳnh đầy vơi.

Văn quan võ tướng nghe lời,

Ai ai xin quyết một bài tận trung.

Ra uy xuống lịnh vừa xong,

Bỗng nghe ngoài đã đùng đùng pháo ran.

Tòa kiểm duyệt bỏ hết một đoạn

Bắn ra nó chết cũng nhiều(5)

Phố phường trông thấy, tiếng reo ầm ầm!

Quan quân đắc chí bình tâm,

Trên thành Cửa Bắc vẫn cầm vững binh.(6)

            ....................................

Không ngờ thất ý tại ta,

Vẫn rằng thắng trận, hóa mà thua cơ!

Nội công phải những bao giờ,

Thấy kho thuốc cháy, ngọn cờ ngả theo (7)

 

            ................................ (8)

Nào ai sức mạnh gan liền?

Nào ai cầm vững cho bền ba quân?

Nào ai có chí kinh luân?

Nào ai nghĩ đến thánh quân trên đầu?

Một cơn gió thảm mưa sầu,

Đốt nung gan sắt, giãi dầu lòng son,

Chữ trung còn chút con con,

Quyết đem gởi cái tàn hồn gốc cây.(9)

Trời cao, biển rộng, đất dày,

Non Nùng sông Nhị chốn nầy làm ghi!

Than ôi trong lúc gian nguy!

Đau lòng ai cũng thương vì người trung!

Rủ nhau tiền góp của chung,

Rước người ra táng ở trong học đường.(10)

Đau đớn nhẽ! ngẩn ngơ dường!

Tả tơi thành quách, tồi tàn cỏ hoa!

Kể từ năm Dậu bao xa,(11)

Đến nay tính đốt phỏng đà mười niên.

Long thành thất thủ hai phen,

Kho tàng hết sạch, quân quyền dời tan.

Đổi thay trải mấy ông quan,

Quyên sanh tựu nghĩa, có gan mấy người?

Trước, quan Võ Hiển khâm sai (12)

Sau, quan Tổng đốc một vài mà thôi.

Ngoài ra võ giáp văn khôi,

Quan bào trâm hốt nhác coi ngỡ là...

Thanh bình làm hại dân ta,

Túi tham vơ nhặt chẳng tha miếng gì.

Đến khi hoạn nạn gian nguy,

Mắt trông ngơ ngác, chơn đi gập ghình.

Võ, như đề đốc Lê Trinh,

Cùng là chánh phó lãnh binh một đoàn,

Đương khi giao chiến ngang tàng,

Thấy quân hầu đổ vội vàng chạy ngay.

Nghĩ xem thật cũng ghê thay,

Bảo thân chước ấy ai bày sẵn cho?

Thế mà nghe nói mồ hồ

Rằng: quan đề đốc xuống hồ cửa tây;

Kẻ rằng: Treo ở cành cây

Người rằng: hẳn xuống giếng nầy không sai.

Thăm tìm ngày một ngày hai,

Định rằng hiệp táng cùng nơi học đường.

Hỏi ra sau mới biết tường,

Cũng loài uý tử, cũng phường tham sanh.

Phép công nên tội đào chinh,

Rồi ra nặng túi nhơn tình lại thôi (13)

Văn như Tuần vũ nực cười,

Bình Chi là hiệu, năm mươi tuổi già (14)

Biết bao cơm áo nước nhà?

Nhắm trong sĩ tịch cũng là đại viên.

Chén son chưa cạn lời nguyền,

Nỡ nào bỗng chốc quên liền ngay đi? (15)

Lại còn lẩn khuất làm chi?

Hay là tham tiếc mùi gì ở đây?

Hay là còn chước bình Tây,

Chực làm nội ứng, đợi ngày viện binh?

Hay là tiếc gái xuân xanh? (16)

Hay là còn chút khuê hình từ thân (17)

Ngổn ngang tính nỗi xa gần,

Rắp toan tịch cốc mấy lần lại thôi. (18)

Sao không sợ tiếng với đời?

Sao không thẹn với chế đài tuyền cung (19)

Kìa Tôn Thất Bá niết công, (20)

Kim chi ngọc diệp, vốn dòng tôn nhân,

Đã quốc tộc, lại vương thần,

Sao không nghĩ đến quân thân, nhưng mà.....

Nước non vẫn nước non nhà,

Nỡ nào để mất một tòa Thăng Long?

Thế xưa liệu đã chẳng xong,

Lại còn mở mặt trong vòng trần gian!

Tư giao sắp những mưu gian,

Thừa cơ xin chữ hội thương ra ngoài (21)

Ấy mới khôn, ấy mới tài,

Lẩn đi tránh tiếng, giục người tiến chinh.

Dâng công quyền nhận tỉnh thành,

Xui người đổ tiếng một mình quan trên.(22)

Tội danh thiệt đã quả nhiên,

Xin đem giao xuống cửu nguyên chế đài

Thung dung kể đến phiên đài(23)

Xỉ ban cũng đã tuổi ngoài sáu mươi.

Thác trong thôi cũng nên đời.

Sống thừa chi để kẻ cười người chê?

Nhĩ mi Tản lãnh đi về,(24)

Giang sơn tuyết chở, sương che cũng liều!

Còn như ty thuộc hạ liêu,

Kẻ công người quả còn nhiều chan chan,

Biết đâu cho hết mà bàn,

Sau nầy sẽ có sử quan phẩm bình,

Trước rèm gió mát trăng thanh(25)

Thừa lương có chốn nhàn đình thong dong.

 

Xa trông chót vót Bình phong(26)

Chúc mừng vạn thọ thánh cung lâu dài!

Rồi khi cá nước duyên hài,

Ra tay khương tế, giở tài kinh luân.

Nghiêu Thuấn quân, Nghiêu Thuấn dân,

Bát thiên thu, bát thiên xuân thái hòa!

Bây giờ ta gắn với ta,

Túy tinh khiển hứng, ngâm nga tiêu sầu.

Ở đời văn võ công hầu,

Càng nghe câu chuyện càng sầu bên tai!

Diễn nôm Chánh khí một bài,

Để cho thiên hạ người người khuyên răn(*).

                                                                               

 

Chú thích

(1)   Đây nhẫn lên lấy đại ý trong bài Chánh khí ca của Văn Thiên Tường.

(2)   Cụ họ Hoàng tên là Diệu, tự là Quang Viễn, người làng Xuân Đài tỉnh Quảng Nam, có đậu cử nhân và phó bảng.

(3)   Tháng hai năm ấy, đại tá Henri Rivière đem hai chiếc tàu và mấy trăm lính ở Sài Gòn ra Hải Phòng, rồi lên Hà Nội, đóng ở Đồn Thuỷ. Cụ Tổng đốc thấy vậy thì sửa sang thành trì để phòng bị. Đại tá không ưng. Ngày mồng 8, lúc 5 giờ sáng, đưa tối hậu thơ, hẹn đến 8 giờ không đầu thì đánh.

(4)   Nghĩa là thề với quân lính…….

(5)   Có người đã chứng kiến trong khi giao chiến, nói rằng bấy giờ trong thành bắn ra, lính Pháp chẳng chết mấy; đấy là lời nói khoe đó thôi.

(6)   Bấy giờ bốn ông quan tỉnh chia giữ bốn cửa, quan Tổng đốc giữ  Cửa Bắc.

(7)   Hai bên giao chiến từ  8 giờ đến 11 giờ thì kho thuốc súng trong thành phát hoả, quân lính rối loạn, bèn đổ chạy. Theo đây thì như có người làm nội công, đốt kho thuốc; song không phải, đó là lửa ngoài bắn vào.

(8)   Quân Pháp leo vào thành từ phía tây.

(9)   Cụ Tổng đốc Hoàng cởi giây thắt lưng bằng nhiễu điều ra tự ải trên nhành cây táo trước mặt Võ Miếu.

(10) Bấy giờ quyền táng ngài trong trường Đốc; sau đó ba tháng mới đưa quan tài về Quảng Nam.

(11) Năm Tân Dậu, Tự Đức thứ 25 (1873), Hà Nội bị thất thủ một lần rồi, lần nầy là lần thứ hai.

(12) Tức là cụ Nguyễn Tri Phương uống thuốc độc mà chết theo thành Hà Nội thất thủ lần thứ nhứt.

(13) Đoạn nầy nói Đề đốc Lê Trinh không chết trong khi thành mất mà lại chạy trốn, theo phép phải có tội, song vì đút tiền thì được khỏi.

(14) Hoàng Hữu Xứng, tự Bình Chi, làm Tuần vũ Hà Nội bấy giờ.

(15) Bữa chiều mồng bảy, các quan có uống rượu mà thề cùng nhau sẽ lấy chết giữ thành.

(16) Ông nầy mới vừa cưới hầu non thì gặp giặc.

(17) Ổng còn mẹ già.

(18) Hoàng Hữu Xứng đã nhịn đói mấy ngày, sau ăn trở lại.

(19) Chế đài là Tổng đốc; tuyền cung là âm phủ.

(20) Tôn Thất Bá làm Án sát bấy giờ.

(21) Buổi sớm mai ngày mồng tám, quân Pháp mới kéo đến , ông Bá xin giấy ra thành để thương thuyết với tướng Pháp xin hoãn binh.

(22) Sau khi thành bị hạ, tướng Pháp giao thành lại, ông Bá đứng nhận. Ông ấy lấy chứng cớ mình ra ngoài hội thương mà đổ trách nhiệm đánh nhau cho một mình quan Tổng đốc, còn mình không dự.

(23) Phiên đài là quan Bố chính.

(24) Quan Bố (quên tên) thì chạy lên Sơn Tây rồi trở về Hà Nội, đi lại nhiều lần.

(25) Đây sắp xuống là lời tác giả tự phu.

(26) Bình phong là núi Ngự Bình ở Huế.

                                                                    (các chú thích đánh số trên đây là nguyên chú của Phan Khôi)

 

                                                                                            Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, s. 777 (4.10.1928)

---------------

* Nhan đề tác phẩm này, theo giới nghiên cứu, là Hà thành chính khí ca. Bạn đọc có thể xem toàn văn tác phẩm này ở các nguồn tư liệu khác. Về văn bản do phan khôi sưu tầm và chú thích trên đây, tôi xin lưu ý một điểm: vì Phan Khôi là cháu ngoại Hoàng Diệu nên có thể ông đã tìm hiểu kỹ lưỡng về sự kiện thành Hà Nội thất thủ lần thứ hai (1882) và sự chú thích của ông có những nét đặc sắc riêng (NST)

 

 Trở về mục lục Trang Phan Khôi