Lạ, sao giới truyền thông “bỏ sót” trường hợp này...

Phạm Quang Đẩu

Nhiều năm qua, các báo chí chính thống ở Việt Nam đã có cơ man bài viết về những gương người tốt việc tốt, nhiều người còn được viết đi viết lại không biết bao nhiêu lần, rồi tập hợp in thành cuốn sách dày. Thật bất ngờ và xúc động khi tôi được gặp ông Nguyễn Đức Tấn, tức Thao, 78 tuổi, ở khu tập thể Khương Thượng (Đống Đa, Hà Nội), một người “đặc biệt” mà chưa bao giờ lên đài, báo trong suốt ngần ấy năm.

Ông Thao là thương binh nặng hạng 1, mất tới 80% sức khỏe, ông bị thương trong trận 12 ngày đêm máy bay Mỹ tập kích vào Hà Nội cuối tháng 12-1972. Trường hợp sống sót của ông còn là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của con người trước những thử thách nghiệt ngã.

Trung úy Nguyễn Đức Thao học ở Liên Xô (cũ) về điều khiển tên lửa, thuộc biên chế của Trung đoàn tên lửa 277 bảo vệ vùng trời Hà Nội. Ngày ấy tên lửa phòng không chủ yếu là SAM 2, để đối phó với đòn tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ dùng tới con “át chủ bài” B-52, quân đội Việt Nam được Liên Xô viện trợ thêm loại tên lửa SAM3 và Trung đoàn 277 lần đầu tiên dùng loại vũ khí này bố trí  trận địa tại xã Uy Nỗ, huyện Đông Anh phía bắc thủ đô. Đêm 21-12-1972 khi đơn vị chưa bài binh bố trận xong, các khẩu pháo cao xạ bảo vệ xung quanh cũng chưa kịp kéo về, thì bất ngờ B52 ào tới ném bom rải thảm liên tục trong một ngày hai đêm. Kíp trắc thủ của trung úy Thao 7 người thì hy sinh 6, ông bị thương rất nặng. Đến ngày thứ hai, một bà lão ở địa phương tình cờ phát hiện ông đang bị vùi trong đất đá và gọi cứu thương, khi đưa ông ra, thân thể mềm nhũn, bê bết máu, bụi đất. Người ta bỏ ông vào túi nhựa đựng xác tử sĩ, may mà ở tuyến sau phát hiện ông còn thở thoi thóp, thì vội chuyển về một viện quân y đóng ở Vĩnh Yên. Cuộc chiến đấu vẫn tiếp diễn, nhiều ngày ông được cấp cứu dưới hầm sâu, bác sĩ, y tá túc trực 24/24 giờ ông có thể ra đi bất cứ lúc nào. Trận “Điện Biên Phủ trên không” kết thúc, ông được đưa lên mặt đất vẫn trong tình trạng hôn mê sâu. Người ta không dám đưa ông lên xe cấp cứu thông thường để chuyển về tuyến điều trị cao hơn, phải gần một năm sau ngày bị thương mới có được chiếc xe cứu thương “êm ái” đưa ông về Viện quân y108 ở Hà Nội. Các giáo sư, bác sĩ ngoại thần kinh nổi tiếng như Phạm Gia Triệu, Nguyễn Văn Cự trực tiếp điều trị cho ông. Trong vòng 3 năm, 3 lần lên bàn mổ. Lần đầu vào tháng 12- 1973, tức mộ năm sau ngày bị thương, một mảnh bom lớn đã cày vào sọ não ông một “đường hào”, mổ xong chỗ đó được đậy lại bằng một miếng mi ca mỏng. Ông được phẫu thuật tiếp các năm sau để lấy các mảnh bom cùng dị vật trên mắt trái, vùng sau gáy. Có lần không kiềm chế được, ông dứt một dị vật nổi cộm trên mí mắt, máu chảy lênh láng. Một đại úy phi công bị tai nạn xe máy ngay trước cổng Viện 108, bác sĩ đã lấy mấy dẻ xương sườn của người tử nạn làm thành mảng sọ não thay cho tấm mi ca. Sau mấy cuộc mổ và chỉnh hình ông tạm “lành lặn”, liệt nửa người, hỏng mắt trái. Giáo sư Triệu nói với vợ ông: Chồng cháu có thể sống thêm 10 năm nữa. Từ ngày đó ông như đứa trẻ nhỏ: tập ngồi dậy, tập bò, tập vịn giường đi, rồi đi chống nạng, còn phải tập nhớ, tập viết bằng tay trái nữa. Khoảng10 năm kiên trì tập như thế ông mới gần được như một người bình thường. Có một việc để luyện trí nhớ, bác sĩ Phạm Gia Triệu đưa ông tập tài liệu y học tiếng Nga nhờ dịch. Cũng thật lạ, tiếng mẹ đẻ có lúc ông còn quên, lẫn lộn, vậy mà đến nước Nga hai lần tổng cộng có 6 năm (lần đầu ông là học sinh học trường Lư Sơn-Quế Lâm, Trung Quốc sang Liên Xô học đại học kinh tế 4 năm) mà chỉ một thời gian ngắn ông đã nhớ lại, đọc, kết hợp tra từ điển dịch được bộ sách chuyên môn dày hàng trăm trang. Và đến ngày hôm nay ông đã sống dài hơn 3 lần thời gian tiên liệu của bác sĩ.

Ở Việt Nam những năm 60 của thế kỷ trước, do được báo chí phát hiện không ai không biết đến tấm gương của Đại úy Phạm Hồng Sơn, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 307 lừng danh, bị thương liệt nửa người vẫn kiên trì tập luyện và học tiếng Nga,  trở thành một dịch giả. Còn có tấm gương về ý chí, nghị lực của nhà văn Sơn Tùng thời chống Mỹ. Là phóng viên chiến trường ông bị thương nặng vào vùng đầu, nhiều lần chết đi sống lại vẫn làm việc không ngừng, đã viết được nhiều tác phẩm có tiếng vang trong lòng bạn đọc.  Ông Nguyễn Đức Thao chính là một “Phạm Hồng Sơn”, “Sơn Tùng” mới. “Tàn” nhưng không “phế”, sau khi ở bệnh viện ra, ông đã trở lại làm việc ở cơ quan nhà nước thêm 14 năm nữa đến khi nghỉ hưu. Đó cũng là một kỳ tích về nghị lực sống, làm việc của con người. Cần phải nói thêm về bà Nguyễn Thư Kim, vợ ông cũng giống như vợ dịch giả Phạm Hồng Sơn, vợ nhà văn Sơn Tùng, đó là những người phụ nữ tuyệt vời. Bà là chỗ dựa tin cậy, niềm hy vọng lớn lao của cuộc đời ông.

Có lẽ do bản tính khiêm nhường, không hay kể về mình mà vì thế suốt 45 năm qua chỉ trừ một số bạn bè thân thiết, không báo đại chúng nào viết về ông, không nhiều người biết về chiến công cùng cuộc chiến đấu với cái chết một cách thầm lặng nhưng vô cùng quyết liệt của ông. Bản thân người viết bài này vốn là phóng viên quân đội đã từng phát hiện nhiều nhân vật ở nhiều tầng lớp, ngành nghề cũng có những việc làm “đặc biệt”. Song thật bất ngờ, thú vị giữa lòng Hà Nội ồn ã, hoa lệ hôm nay, lại được đến một góc sống bình lặng, thanh bần để được diện kiến một cựu chiến binh từng sống, chiến đấu như một người anh hùng chân chính.

 

Ông, bà Nguyễn Đức Thao.

Tác giả Phạm Quang Đẩu gửi cho viet-studies ngà 12-9-17