ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ
THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI
 

Mục lục 


Nguồn: Tạp chí Cộng sản, Hà Nội, số 11 (tháng 11-1991); số 12 (tháng 12-1991)

 

VĂN HỌC: ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN

 

Để góp một tiếng nói vào đời sống văn nghệ của đất nước, ngày 27-9-1997, Ban văn xã Tạp chí Cộng sản đã tổ chức cuộc tọa đàm Văn học: đổi mới và phát triển, với sự tham gia của một số nhà thơ, nhà văn, một số nhà nghiên cứu lý luận, phê bình và giảng dạy văn học thuộc các trung tâm văn học lớn ở Hà Nội, cùng đại diện Hội đồng khoa học và các bộ Ban văn xã Tạp chí Cộng sản.

Đồng chí Hà Xuân Trường, chủ tịch Hội đồng khoa học Tạp chí Cộng sản chủ trì buổi tọa đàm.

Sau đây là một số ý kiến chính trong buổi tọa đàm đó.

Nhìn nhận, đánh giá tình hình phát triển của văn học 16 năm qua, đặc biệt từ Đại hội VI của Đảng, trong bối cảnh những biến chuyển quan trọng

VŨ TÚ NAM

Trong sự phát triển mạnh mẽ, phong phú của văn học ta mấy năm gần đây tôi thấy nổi lên mấy vấn đề:

Trước hết phải nói tới cái được. Rất nhiều nhà văn, qua tác phẩm của mình, góp phần nhìn lại con người Việt Nam một cách toàn diện, những ưu điểm, nhược điểm, truyền thống, những thiếu hụt, thậm chí cả những mặt tha hóa, xuống cấp..., lấp đầy những lỗ hổng đề tài mà trước đây chưa có điều kiện đề cập. Chẳng hạn như một số sáng tác ban đầu của Nguyễn Huy Thiệp là tiếng chuông báo động về sự tha hóa của con người.

Nhìn lại một số sự kiện lịch sử: cuộc kháng chiến chống Mỹ, cải cách ruộng đất, các nhà văn cũng có cái nhìn mạnh dạn, trung thực hơn, phản ánh chúng vào tác phẩm một cách toàn diện, chân thực và sinh động, với tinh thần chung là nhìn lại để rút ra những gì có ích cho cuộc sống hôm nay. Chẳng hạn: Ông cố vấn của Hữu Mai, Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh.

Một số sáng tác đi sâu vào cuộc sống đời thường, vào số phận cá nhân con người với tất cả sự phong phú, phức tạp của nó, tạo nên tính hấp dẫn, gần gũi với người đọc. Đó là những cái được đáng quý, đáng khuyến khích, trân trọng.

Tuy nhiên, từ những xu hướng trên, cũng đẻ ra những mặt tạm gọi là chưa được. Trước hết, đó là cái nhìn cực đoan, phiến diện trong sáng tác. Nhìn nhận, miêu tả con người (nhất là đối với những nhân vật đảng viên cộng sản, cán bộ lãnh đạo) chỉ thấy mặt tồi tệ, hư hỏng, đáng xấu hổ. Nhân vật người cộng sản chân chính trong văn học sao mà ít ỏi và mờ nhạt. Nhìn lại các sự kiện lịch sử (chẳng hạn: cải cách ruộng đất), chỉ thấy những sai lầm, tội ác mà không thấy những mặt khác. Cách nhìn này có cơ sở xã hội thực tế của nó và ta không nghi ngờ gì thiện ý của đa số người viết, nhưng rõ ràng, nó không khách quan, không khoa học và thiếu công bằng, là kết quả của sự vội vàng, áp đặt chủ quan, và như vậy tất yếu đẻ ra một kiểu công chức mới, sơ lược mới và chủ nghĩa thành phần mới trong văn học.

Trong sáng tác, có quan điểm cho rằng, trước đây ta viết chỉ thiên về mặt cộng đồng, mặt công dân của con người, thì bây giờ cần viết về số phận, thân phận cá nhân là chủ yếu. Quan điểm này, về lý luận có cái gì đó khập khiễng, về thực tế cũng không phù hợp. Cá nhân và cộng đồng luôn gắn bó với nhau trong mọi thời kỳ, tuy còn tùy thuộc vào những hạn chế lịch sử khác nhau.

Hiện nay, có điều đáng lưu ý là rất khó phân biệt giữa "làm ăn" và "làm cách mạng", giữa "đời thường", "cá nhân" và "cộng đồng". Nó đòi hỏi các nhà văn phải có cái nhìn thấu đáo để vừa phản ánh số phận cá nhân, vừa nói lên được nỗ lực chung của cộng đồng.

XUÂN THIỀU

Từ đầu những năm 80, ta thấy văn học bắt đầu xuất hiện những yếu tố đổi mới, tuy còn e ấp, khiêm nhường. Nhà văn đổi mới bằng sự nhạy cảm của người nghệ sĩ trước số phận của con người, trước vận mệnh dân tộc. Đó là các sáng tác của Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, v.v... Nhà văn vừa viết vừa nghe ngóng, và không tránh khỏi trường hợp bị gây khó dễ.

Từ sau Đại hội VI, nhất là sau Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về văn hóa văn nghệ, văn học có sự đổi mới mạnh mẽ, nhất là trong văn xuôi. Nhìn chung, bên cạnh điều này, điều nọ cần bàn luận, nền văn học ta đang chuyển dần về đúng vị trí và chức năng mà cuộc sống hôm nay đòi hỏi ở nó.

Hai năm qua, làm việc ở Ban sáng tác Hội Nhà văn, có điều kiện, và trách nhiệm phải đọc hàng trăm tác phẩm văn xuôi, tôi thấy mình bị ngợp trong một bối cảnh xã hội phức tạp và gay gắt. Khuôn mặt nông thôn Việt Nam được tái hiện trong sáng tác của Đoàn Lê, Khôi Vũ, Dương Hướng, Ông Văn Tùng, Nguyễn Đức Thọ... đặc biệt là cuốn Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường. Viết về các môi trường khác, ta thấy nổi lên các sáng tác của Ma Văn Kháng, Chu Lai, Nguyễn Huy Thiệp, Khuất Quang Thụy, Trung Trung Đỉnh v.v... Nếu gọi đó là phản ánh hiện thực xã hội thì văn học gần đây đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình; kể cả những cuốn có ý kiến phê phán, mảng hiện thực đời sống cũng rất đáng trân trọng.

Viết về chiến tranh hay nói đúng hơn là tác động qua lại của chiến tranh với con người, các nhà văn đã có cách nhìn trung thực, nhân bản hơn, chẳng hạn: Ông cố vấn của Hữu Mai, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh, Nước mắt đỏ của Trần Huy Quang.

Thực ra, đóng góp chủ yếu của văn học những năm gần đây không phải là phản ánh hiện thực, mà là sự chuyển hướng từ văn học nói về cộng đồng sang văn học nói về số phận con người. Trong thơ là sự chuyển hướng từ cái ta chung chung sang cái tôi cụ thể của tác giả. Trong văn xuôi, nhân vật có đời sống riêng, thân phận riêng, tính cách riêng. Nó không khước từ cộng đồng, nhưng độc lập với cộng đồng hơn. Chỗ này ý kiến của tôi có khác với anh Vũ Tú Nam. Thực ra, theo quan niệm của tôi, giữa cá nhân và cộng đồng không có gì mâu thuẫn, nhưng không nhất thiết cứ phải coi bất cứ cá nhân nào cũng mang gương mặt cộng đồng, là chính cộng đồng trước đây. Cá nhân con người không ngoảnh mặt quay lưng với cộng đồng, mà thống nhất, hòa nhập với cộng đồng, nhưng đồng thời có những nét riêng về sự độc lập của mình. Nó, chính cá nhân con người, sẽ làm biến chuyển cộng đồng, thức tỉnh và lay chuyển tâm hồn của mọi người trong cộng đồng. Nhiều tác phẩm văn học vừa qua dã mang được dáng vẻ mới mẻ đó.

PHAN CỰ ĐỆ

Cách đây mấy năm, trong giới nghiên cứu có một quan điểm: từ trước năm 1975 ở Việt Nam chưa có cách mạng xã hội thực sự và toàn diện. Các cuộc cách mạng trước 1975 chủ yếu mới giải quyết được vấn đề dân tộc. Trước đây, Quang Trung cũng đã bắt đầu một số cải cách, nhưng quá ngắn ngủi. Ở ta, sau Cách mạng Tháng Tám, ở miền Bắc, có cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản và một số vấn đề văn hóa, nhưng nhìn chung toàn quốc thì những vấn đề xã hội còn tồn đọng rất nhiều. Vì vậy, sau 1975, các vấn đề xã hội nổi lên phức tạp là tất nhiên, trong đó có vấn đề cá nhân và cộng đồng. Như vậy, vấn đề cá nhân và cộng đồng không chỉ là vấn đề của chiến tranh chuyển hòa bình, mà là một vấn đề lịch sử, có nguồn gốc sâu xa hơn. Nó có dính ít nhiều đến những gián cách lịch sử của xã hội Việt Nam. Ở phương Tây, người ta đặt vấn đề giải phóng cá nhân từ thời Phục Hưng (thế kỷ 16), mãi đến sau này mới chuyển thành chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Còn ở ta, do những điều kiện lịch sử, vấn đề cá nhân còn tồn tại đến tận ngày nay. Vấn đề này được bàn cãi không chỉ trong các hội nghị văn học, mà cả trong các hội nghị xã hội học, sử học... Vậy theo tôi, giải quyết vấn đề này không đơn giản, đòi hỏi phải công phu và khoa học.

Tôi cũng đồng ý với anh Xuân Thiều rằng việc chuyển từ cộng đồng sang số phận cá nhân là một bước tiến trong văn học ta gần đây. Nhưng tôi không đồng ý với những cách đặt vấn đề (xuất hiện cách đây 7 - 8 năm) cho rằng: trong 30 năm chiến tranh, chúng ta áp đặt cộng đồng lên cá nhân. Tôi cho cái chữ ấy không được. Như anh Hữu Mai viết bộ Đất nước, tập 1, anh lấy tên là Những người tình nguyện. Khi đó sự hòa hợp cá nhân-cộng đồng là vấn đề có thật. Nếu cho rằng ta đã hy sinh cá nhân, áp đặt cộng đồng lên cá nhân là không đúng. Phải thấy rằng, trong 30 năm chiến tranh ta cũng có giải phóng cá nhân, nhưng chủ yếu mới là giải phóng cá nhân về mặt con người công dân thôi. Trong cá nhân còn có con người xã hội, con người tự nhiên và nhiều mặt khác: cá tính, phong cách, tài năng... rộng rãi hơn nhiều. Những mặt này, bây giờ văn học đang tiếp tục giải quyết.

Trong lịch sử tư tưởng của ta, có hai tư tưởng chủ đạo đi song song là tư tưởng yêu nước và tư tưởng nhân ái. Đặt vấn đề như vậy thì vấn đề cá nhân cũng không thể giải quyết độc lập, tách khỏi cộng đồng.

HỮU MAI

Về sự khủng hoảng trong văn học ta hiện nay, tôi cho rằng có nhiều nguyên nhân. Xã hội ta đã chuyển sang cơ chế thị trường, người sản xuất không thể tách rời người tiêu thụ, nhà văn phải gắn với người đọc. Thị hiếu người đọc những năm gần đây thay đổi rất nhanh. Trước kia, người ta thích sách dịch phương Tây, rồi thích loại sách "ba tình"..., rồi sách dịch của Tàu, sách in ở miền Nam trước giải phóng, gần đây là tiểu thuyết của Quỳnh Dao, hoặc viết theo kiểu Quỳnh Dao. Còn bây giờ thì... chán tất! Những tác phẩm cổ điển, những tác phẩm được giải lớn: Nobel, Gông-cua, Pu-lit-zơ... không có người mua. Tình hình này rất đáng lo ngại. Nó đã tức thời tác động xấu tới sáng tác văn học. Năm 1990, tiểu thuyết được mùa lớn. Năm nay, gần cuối năm rồi, rõ ràng có dấu hiệu mất mùa! Trong cuộc gặp đồng chí Tổng Bí thư vừa rồi, tôi đã phát biểu tình trạng khủng hoảng trong văn học đã lên tới đỉnh điểm, cần có những giải pháp tình thế.

Khủng hoảng do cơ chế thị trường tác động, theo tôi, chưa quan trọng bằng khủng hoảng trong cách đánh giá, trong việc xác định những tiêu chí mới về giá trị đạo đức, tinh thần. Trước đây, đề cao cộng đồng, bây giờ chú trọng cá nhân, nhưng quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng ngày nay ra sao? Chưa rõ!

Đọc những văn kiện Đại hội VII, tôi thấy những đoạn viết về văn học nghệ thuật thoáng, rộng hơn trước, nhưng còn cần được cụ thể hóa. Có những giá trị thay đổi. Thế nào là thiện - ác, tốt - xấu, giả - thật ngày nay không thể đơn giản. Khá nhiều vấn đề quan trọng mà nhà văn chưa thể lý giải cho chính mình!

Chẳng hạn, vấn đề hiện thực chiến tranh trong cuốn Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh, đã có những ý kiến khác nhau trong Ban chung khảo. Có người đánh giá đây là hiện thực dữ dội của chiến tranh, lần đầu được văn học đề cập tới. Nhưng cũng có người nói đây không phải là hiện thực lịch sử, vì với tâm trạng những người lính như vậy thì không thể có chiến thắng; đây là hiện thực được cảm nhận lại, của một người lính sau nhiều năm chiến tranh, gắn với tâm trạng hôm nay.

NGUYỄN KIÊN

Chủ trương tự do sáng tác của Đảng ta là đúng đắn, hợp với quy luật của sáng tác nghệ thuật, là điều kiện bảo đảm cho văn học nghệ thuật phát triển. Với điều kiện bảo đảm như thế, văn học gần đây đã có được nhiều thành tựu đáng ghi nhận.

Trước hết đó là sự mở rộng về đề tài, nói đủ thứ chuyện trên đời, nhưng chủ yếu tập trung vào con người, với tính toàn vẹn của nó. Cách viết truyền thống vẫn tiếp tục và thành công ở mức độ khác nhau (Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, Ông cố vấn của Hữu Mai).

Đáng chú ý hơn, là sự xuất hiện ngày càng nhiều những sáng tác miêu tả cái đời sống ẩn chứa bên trong của con người, tập trung vào số phận cá nhân con người, lịch sử được nhận biết qua số phận các cá nhân. Bến không chồng của Dương Hướng là một ví dụ. Đây là cuốn tiểu thuyết miêu tả số phận cá nhân, mặc dù câu chuyện diễn ra trong khoảng vài chục năm đầy biến động nhưng nó không phản ánh hiện thực theo kiểu cũ.

Cái được tiếp theo của văn chương, theo tôi, là sự đa dạng về phong cách, hình thức, về cách nhìn, không chỉ trong văn xuôi mà cả trong thơ. Trong sự đa dạng đó, không có nghĩa là cái nào cũng hay, cũng tốt, nhưng ta cần ghi nhận điều này, bởi tác phẩm văn học là cái đơn nhất, không nhắc lại hay trùng lặp.

Cái được thứ ba là cá tính sáng tạo của từng nhà văn được thể hiện rõ trong tác phẩm. Sáng tác của các nhà văn (không chỉ ở lớp trẻ) thể hiện rõ sự cố gắng bộc lộ cá tính riêng của mình, chủ thể sáng tác được tự ý thức và coi trọng. Xét riêng về mặt này thì phải công nhận Nguyễn Huy Thiệp là một tác giả có dấu ấn riêng rất rõ. Rồi Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Y Ban v.v...

Đó là những cái được. Còn cái chưa được? Theo tôi, có hai điểm đáng chú ý. Rải rác đây đó trong một số tác phẩm hay một đôi chỗ trong một tác phẩm có cái nhìn chủ quan, phiến diện, gượng ép. Nhà văn cố tình gò nhân vật vào tác phẩm theo ý định chủ quan của mình một cách lộ liễu, nên rơi vào một kiểu công thức, sơ lược mới (như anh Vũ Tú Nam đã nói). Thậm chí còn có cả thái độ thiếu vô tư, nóng nảy, vội vàng, đôi khi cay cú, trong một số tác phẩm. Đồng thời, do tác động của cơ chế thị trường, nổi lên tình trạng viết dối, viết ẩu, chạy theo đồng tiền trong sáng tác. Nhà văn cũng cần tiền như bất cứ ai và viết để kiếm tiền, điều đó hoàn toàn chính đáng. Nhưng vứt bỏ mọi thiên chức nghề nghiệp để thuần túy vì đồng tiền, thì rất đáng phê phán.

TRẦN ĐÌNH SỬ

Tôi xin mạnh dạn đưa ra một phác thảo suy nghĩ của tôi về quy luật phát triển của văn học ta trước và sau năm 1975. Đây mới chỉ là phác thảo để chúng ta cùng bàn, có gì mong các đồng chí cùng tranh luận. Tôi cho rằng từ sau năm 1975, chúng ta đã có bước chuyển từ văn học cách mạng sang văn học. Nếu như trước đây, nền văn học cách mạng của chúng ta tập trung trong một hệ thống chặt chẽ, một mối quan hệ tư tưởng thống nhất, thì sau năm 1975 văn học cách mạng chỉ còn là một bộ phận của nền văn học. Chẳng hạn cuốn Đường về Sài Gòn của Nam Hà, tôi cho vẫn là văn học cách mạng, nó biểu dương, khẳng định sức mạnh của dân tộc; nhưng cuốn Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh thì tôi cho không phải là văn học cách mạng mà chỉ là một tác phẩm văn học. Tức là, chúng ta đã có bước chuyển về loại hình văn học, mô hình văn học. Trước đây văn học cách mạng thuần nhất không chấp nhận các loại văn khác. Còn bây giờ, chúng ta có một nền văn học nhiều loại, nhiều tầng; giải trí, võ hiệp, kỳ tình... và cả văn học cách mạng. Trong bản thân một tác phẩm văn học cũng có nhiều tầng, lớp. Sự chuyển biến này rất lớn và rất quan trọng. Từ một nền văn học cách mạng với những nhiệm vụ tư tưởng rõ ràng đã chuyển thành một nền văn học với chức năng thỏa mãn tất cả mọi nhu cầu trong đời sống tinh thần của con người. Tôi cho rằng cần phải nhận thức một cách đầy đủ và triệt để như vậy thì mới nghĩ được cách lãnh đạo, quản lý tương ứng và phù hợp. Tức là, đã có một bước phát triển về ý thức văn học trong xã hội. Chẳng hạn, cuốn Mảnh đất lắm người nhiều ma, tôi cho rằng đó là một tác phẩm lành mạnh có giá trị, nhưng không phải là văn học cách mạng như cách ta hiểu lâu nay.

Tôi xin nói thêm về vấn đề văn học sử thi. Văn học cách mạng trước đây là văn học sử thi. Tôi dùng chữ "sử thi" với tất cả tính đúng đắn, khoa học và tốt đẹp của nó. Nó là văn học viết về cộng đồng, giai cấp, dân tộc, nhân dân, với nhiều thành tựu lớn. Sau năm 1975, nó chuyển dần sang thế sự, đời tư, giải quyết những vấn đề, những mối quan hệ trong nội bộ dân tộc. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nghiên cứu để thấy rõ trong sự phát triển đó, ở từng giai đoạn, nó rộ lên từng loại sáng tác. Viết về chiến tranh, ta hãy so sánh các trường ca của Hữu Thỉnh, Thanh Thảo sau năm 1975 với tác phẩm của Bảo Ninh hiện nay: từ khẳng định, ca ngợi chiến thắng đến cảnh tỉnh, ngăn ngừa chiến tranh. Viết về các vấn đề khác cũng vậy (chẳng hạn cải cách ruộng đất), đó là quy luật phát triển, ta không việc gì phải lo ngại.

PHẠM TIẾN DUẬT

Tôi rất tâm đắc với vấn đề xã hội học văn học mà Tạp chí Cộng sản đưa ra thảo luận. Đây là vấn đề trung tâm của các cuộc tranh luận văn học lâu nay. Chúng ta chấp nhận một nền kinh tế thị trường có nghĩa là chấp nhận sự trở lại, sự tái xuất hiện của một loạt đề tài trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn xưa: người giàu và người nghèo, ông chủ - đầy tớ, quyền lực, tình - tiền, cao hơn nữa là cơ may của số phận cá nhân trong cộng đồng. Đó là những tồn tại khách quan mà chúng ta, trước hết là các nhà văn, phải chấp nhận và giải quyết.

Tôi thấy cần trao đổi với anh Trần Đình Sử, không thể phân chia văn học trước đây là văn học cách mạng, còn bây giờ là văn học. Tôi nhấn mạnh: không thể được. Văn học thời kỳ chiến tranh cũng như văn học viết về đời thường, tình yêu, số phận cá nhân như bây giờ, tất cả đều chung mục đích với cách mạng: cuộc sống tốt đẹp cho con người. Các nhà lý luận cứ hay phân định rạch ròi, trong khi vấn đề văn học đa dạng sâu sắc và toàn diện hơn nhiều.

VŨ QUẦN PHƯƠNG

Sự đổi mới trong văn xuôi thì đã rõ, và dễ nhận thấy. Còn trong thơ thì khó phát hiện hơn, bởi thơ là chắt lọc, khái quát và biểu tượng. Nếu ta đọc thơ theo cách đọc văn xuôi để tìm cái mới thì rất khó, nhưng nếu chịu khó đọc kỹ và suy ngẫm thì sẽ thấy sự đổi mới trong thơ có phần còn mạnh mẽ hơn trong văn xuôi.

Về quan niệm đổi mới trong văn học vừa qua, tôi cho rằng, trước hết và chủ yếu là đổi mới trong chính sách quản lý và đường lối lãnh đạo văn nghệ, tác động đến sáng tác, tạo nên những cái mới trong sáng tác vừa qua. Còn bản thân sáng tác không có sự đột biến, rành rõ, không phải trước cũ rích, còn giờ thì mới tinh, mà vẫn là một quá trình tiệm tiến theo quy luật tự thân của nó. Vì thế, quan niệm trước đổi mới ta không có văn chương, còn bây giờ mới là văn chương, là không thỏa đáng, không khoa học. Bản năng trí tuệ và bản năng sáng tạo thôi thúc người nghệ sĩ trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng hướng tới chân lý và cái đẹp đích thực.

Về tính phiến diện của văn học chiến tranh, tôi cho rằng phải nhìn thấy hết sự tự nguyện của nhà văn vì mục đích chung của cả dân tộc. Đó là tính nhân đạo, là đạo đức lớn nhất vốn có trong chiến tranh.

Cái sai là có người cứ nghĩ rằng văn chương cứ phải phiến diện như thế mới là cách mạng, là văn chương đích thực, mà không thấy hết tính bất đắc dĩ và sự bắt buộc của hoàn cảnh.

Cũng như vậy, mối quan hệ hòa hợp giữa cá nhân và cộng đồng trong chiến tranh là có thật, và người ta coi đó là tự nhiên. Chẳng hạn, ở nhà thơ Tố Hữu, những vấn đề lớn của dân tộc, của thời đại, cũng là vấn đề riêng tư của anh, không có sự chia cắt. Tuy nhiên, đến một giai đoạn, mối quan hệ này sẽ có sự so le, bởi cái ta gọi là cộng đồng không còn hoàn toàn phù hợp với cái cá nhân nữa; nói cách khác: cái cộng đồng cũng đã khác đi rất nhiều trong khi ta vẫn quan niệm nó theo mẫu cũ. Vậy, nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm ra đặc điểm mới của cộng đồng cho phù hợp, đại diện được cho cá nhân ngày hôm nay, chứ không thể xóa bỏ mối quan hệ giữa chúng.

LÊ QUANG TRANG

Tôi xin trao đổi với ý kiến của anh Trần Đình Sử cho rằng, văn học từ 1945 - 1975 là văn học cách mạng, còn sau 1975 là văn học. Đây là một vấn đề phức tạp, người nêu ra cũng chưa kiến giải đầy đủ, nên chưa có đầy đủ dữ kiện để thảo luận. Song theo tôi, đây là một ý kiến không chính xác, còn nhiều sơ hở trong khái quát. Sự phân loại này căn cứ vào tiêu chí cơ bản nào cũng chưa được xác lập rõ. Thực ra, từ cách mạng (révolution) không nên thu hẹp trong nghĩa phá bỏ, thay đổi mà còn bao hàm nghĩa tiến bộ, tiến hóa (évolution). Tính cách mạng còn phải tìm hiểu ở chỗ đứng của nhà văn. Nó phân ranh giới giữa những nhà văn chúng ta với những kẻ công kích, chống phá chúng ta khi cùng viết về đề tài phê phán chế độ, sự nghiệp cách mạng (qua những sai lầm và khuyết điểm).

PHẠM XUÂN NGUYÊN

Trước hết, tôi thấy cần khẳng định rằng, công cuộc đổi mới từ Đại hội VI của Đảng là một cơ may cho văn học, để nó không bị kìm hãm lâu hơn nữa mà được trở lại với dòng chảy bình thường của nó. Trước năm 1975, do hoàn cảnh lịch sử khách quan và những nguyên nhân chủ quan, trong đó có cả phần tự nguyện và không tự nguyện của nhà văn, mà văn học ta phát triển không bình thường. Tôi nói không bình thường ở đây là để miêu tả tình hình, chứ không có ý đánh giá về giá trị.

Sau năm 1975, văn học đã có những chuyển động tự thân (cả trong sáng tác và lý luận phê bình) nhằm thoát ra khỏi cái cũ, nhưng nếu không có sự tác động từ ngoài vào là công cuộc đổi mới, thì không thể có một bước phát triển văn học như bây giờ. Văn học hiện nay như là một sự phát triển tiếp nối văn học giai đoạn 1930 - 1945 với tất cả sự phong phú, phức tạp bề bộn của nó. Và đó là sự phát triển bình thường, hợp quy luật của văn học. Tôi đồng ý với ý kiến cho rằng văn học bây giờ đang có sự trở lại của những vấn đề, đề tài của thời Tự lực văn đoàn. Đúng vậy, đó là sự trở lại, sự bù đắp những thiếu hụt do 30 năm chiến tranh, được các nhà văn thực hiện một cách gấp gáp, với tất cả tinh thần và nhiệt huyết công dân trong 5 năm qua, tạo nên một sự phát triển bùng nổ trong văn học. Đến thời điểm này, khi những thiếu hụt ban đầu đã phần nào được bù đắp, thỏa mãn (hiện thực tàn khốc, mất mát trong chiến tranh, hiện thực "trái khoáy" của cải cách ruộng đất v.v...), văn học đang có dấu hiệu chững lại, các nhà văn đang đứng trước những đòi hỏi cao hơn, những thách thức quyết liệt hơn: văn học sẽ phát triển tiếp như thế nào? Cần có những tìm tòi, khai phá để văn học bước nhanh từ mô tả, kể lể hiện thực sang suy ngẫm, khái quát hiện thực. Về mặt này cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh là một đóng góp cùng các sáng tác của Nguyễn Trọng Oánh, Xuân Thiều, Nguyễn Trí Huân, làm thành một bức tranh toàn cảnh sâu sắc về cuộc chiến tranh của dân tộc.

NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG

Đến đầu những năm 80, văn học ta vẫn thiếu một khí ấm nóng, sôi động, bởi nhà văn cứ rón rén đi bên lề cuộc sống. Vậy mà mới chỉ mấy năm sau Đại hội VI, đời sống văn học như náo động hẳn lên. Thực trạng đời sống được các nhà văn mổ xẻ, phanh phui, chiêm nghiệm một cách sát sạt và quyết liệt với những tác phẩm có sức gợi, sức đánh động khiến người đọc phải nhìn tới nhìn lui mà suy nghĩ, dằn vặt cùng nhà văn. Tất nhiên, trong làn sóng xô bồ của xã hội, đây đó có sáng tác cực đoan, máy móc, có sự viết dối, viết ẩu, chạy theo đồng tiền. Theo tôi, đó là điều bình thường. Cơ bản là cỗ xe đang chạy đúng hướng, văn học đang tiến đến những giá trị đích thực, và chúng ta hoàn toàn có cơ sở để lạc quan.

Tôi muốn nói thêm về hình tượng người cộng sản, người anh hùng trong văn học ta hôm nay. Đã có thời các nhà văn đau đáu xây dựng hình tượng người chiến sĩ cách mạng thành những điển hình sáng chói, có sức động viên và giáo dục người đọc. Giờ đây, có ý kiến cho rằng trong 10 năm qua, họ đã bị đánh bật ra khỏi những trang sách. Thay vào đó là những nhân vật chẳng có danh giá gì, tầm thường, thất thểu; nếu là lãnh đạo thì tha hóa biến chất, nhem nhuốc, rác rưởi. Đấy cũng là một thực trạng xã hội và chúng ta có lý do để giải thích. Nhưng cũng có cái lý ngược lại là: dù thế nào đi chăng nữa thì cuộc đời vẫn luôn luôn cần những người anh hùng và phải có những anh hùng. Vậy trong hình tượng người cộng sản chân chính bây giờ ra sao? Cần phải xây dựng thế nào cho đúng nhất, đẹp nhất, mà lại có sức lay động và cuốn hút người đọc. Đấy, quả là điều mà tất cả những người sáng tác và lý luận phê bình cần bàn, và không thể nói thấu đáo trong vài phút ở đây.

NGÔ VĨNH BÌNH

Tôi rất tâm đắc với ý kiến anh Nguyễn Khắc Trường về vấn đề nhân vật người cộng sản, nhân vật anh hùng hôm nay trong văn học. Trong chiến tranh giải phóng, chúng ta cần có anh hùng và "ra ngõ gặp anh hùng", thì trong xây dựng hòa bình, càng cần nhiều anh hùng hơn. Một nhà tư tưởng đổi mới, cải cách, một nhà khoa học, một nhà kinh doanh, một nhà ngoại giao tài năng... sao lại không phải là anh hùng? Sao họ lại không có chỗ đứng trong các trang sách tương lai? Tôi tin chắc rằng, những nhân vật "khật khưỡng", "dở ông dở thằng" trong văn học sớm muộn rồi cũng sẽ thưa đi, nhường chỗ cho những nhân vật anh hùng mới, những nhân vật của thời đại.

KHUẤT QUANG THỤY

Có thể nói, sau Đại hội VI của Đảng, văn học nước ta đã có được một cơ hội, và đã tận dụng được cơ hội đó để phát triển. Đã có sự thay đổi về chất trong tư duy sáng tạo của nhà văn, mà cốt lõi là sự tiếp cận với bản chất của đời sống xã hội và con người Việt Nam. Sự trung thực trong sáng tạo đã khiến nhà văn và văn học củng cố được niềm tin cho bạn đọc. Cần phải khuyến khích cách nhìn mới mẻ, lối tư duy nghệ thuật đa dạng, và phương pháp mổ xẻ các hiện tượng tâm lý xã hội một cách thẳng thắn, không khoan nhượng. Nhà văn có khả năng làm cho bạn đọc ngạc nhiên và tự hào khi phát hiện ra những nét đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam, thì tại sao lại không có khả năng làm cho bạn đọc ngạc nhiên, đau xót và xấu hổ khi phát hiện ra những hạn chế, thậm chí những tội lỗi và sự thấp hèn còn tồn tại trong đời sống xã hội và tâm hồn con người? Chẳng hạn sự xuất hiện của tiểu thuyết Sóng lừng của Triệu Xuân (tuy còn rất nhiều điều cần bàn), nhưng tiếng là tiếng chuông báo động về nguy cơ của tội ác và bất công trong xã hội.

Về mô hình phân chia văn học của anh Trần Đình Sử, theo tôi cần giải thích cặn kẽ, không sẽ rất dễ gây hiểu lầm, ít nhất là ở cái vỏ ngôn ngữ của nó: văn học trước đây không phải là văn học, còn văn học hiện nay lại ít tính cách mạng. Nếu hiểu cách mạng là sự tiến hóa, phát triển, thì văn học hiện nay còn nhiều tính cách mạng hơn.

 Những vấn đề đặt ra, đòi hỏi phải giải quyết để thúc đẩy văn học tiếp tục phát triển

PHAN CỰ ĐỆ

Tôi xin nêu lên 2 vấn đề:

Trong hội nghị hợp tác và phát triển văn hóa ba châu: Á, Phi, Mỹ Latinh do SIDA tổ chức ở Thụy Điển mà tôi vừa dự, có đặt vấn đề thảo luận: hiện nay, nhà nước hay thị trường, tư nhân hay cộng đồng, chịu trách nhiệm về văn hóa? Đây là vấn đề rất thời sự, nhất là đối với các nước đang phát triển. Nền văn học nước ta là một nền văn học có lãnh đạo, nhưng cũng phải thấy hết sức ép ghê gớm của thị trường, nhất là đối với các nhà xuất bản, khiến họ phải chạy theo loại sách rẻ tiền nhưng bán chạy (các loại tiểu thuyết tình dục và bạo lực dịch của phương Tây), mà bỏ rơi những sáng tác có giá trị nhưng khó bán, hay không bán được. Như vậy, nhà nước phải có trách nhiệm đầu tư, tài trợ.

Vấn đề mở rộng cửa, hiện đại hóa nền văn học dân tộc (cả văn hóa), là hết sức đúng đắn và cần thiết, nhưng định hướng phải rõ. Đường lối chung của ta về vấn đề này rất đúng, nhưng cơ chế tổ chức còn quá kém. Ta gần như đang thả nổi những cơ quan có chức năng định hướng, buộc họ phải làm trái chức năng để sống. Vậy nếu không có sự đầu tư thích đáng, thì nói định hướng xã hội chủ nghĩa cũng chỉ là lý thuyết thôi.

HỮU MAI

Định hướng lớn thì đã có, nhưng cái cụ thể thì chưa rõ. Cũng như các lĩnh vực khác của đời sống, tự do, dân chủ trong văn hóa và văn học cần được thể chế hóa thành luật pháp. Nếu chưa có luật pháp thì có khi người vượt khỏi ranh giới sẽ không hề hấn gì, mà người đi đúng đường cũng có thể bị nguy hiểm. Đây là vấn đề khó và phức tạp, cần tới rất nhiều kiến thức và thời gian. Trên thế giới, nước nào cũng đề ra việc chống văn hóa đồi trụy, nhưng cho tới nay các nhà luật học vẫn chưa thống nhất được định nghĩa thế nào là một tác phẩm dâm ô!

NGUYỄN KIÊN

Từ cái được và chưa được của văn học, đặt ra mấy vấn đề.

Vấn đề cái nhìn trong sáng tác: chúng ta từ bỏ cái nhìn chủ quan, cứng nhắc để hướng tới cái nhìn khách quan đúng đắn. Đó là một quá trình không đơn giản, đòi hỏi nhà văn phải sống, phải suy ngẫm, chuyển động, thậm chí vật vã, đau đớn (như trường hợp anh Nguyễn Minh Châu). Vấn đề này, Đảng cần biết để thấu hiểu các nhà văn, nhưng cơ bản phải phụ thuộc vào nỗ lực cá nhân của từng người viết.

Vấn đề thứ hai là sự tác động của cơ chế thị trường và thách thức của cuộc sống hiện đại. Thị trường sách hiện đang diễn biến gần như hoàn toàn tự phát. Sự điều tiết của cơ quan quản lý nhà nước rất lúng túng hoặc rất kém tác dụng trong cái mớ bòng bong đó. Văn học hiện đang đứng trước sự thách thức của nhịp sống hiện đại và sự chen lấn của các phương tiện nghe nhìn, khiến ảnh hưởng của nó bị giảm đáng kể.

Vậy đề nghị giới nghiên cứu lý luận phát hiện cho ra cái đặc trưng, đặc thù, cái thế mạnh không thể thay thế của văn học để nó phát huy, khẳng định chỗ đứng trong đời sống tinh thần. Phải chăng, văn học nên đi sâu vào đời sống bên trong, sự tự tìm tòi, tự ý thức của con người?

PHƯƠNG LỰU

Chúng ta thảo luận đây với thiện ý là góp phần tác động tích cực đến tình hình văn học trước mắt. Có thể và phải nỗ lực chủ quan để làm điều đó. Nhưng làm được đến đâu, cũng cần phải thấy những giới hạn khách quan của tình hình. Trước hết về mặt sáng tác, hiển nhiên có vấn đề bản lĩnh và trách nhiệm của nhà văn, nhưng họ không thể nào thoát ly hoàn toàn cái tâm trạng đang đối ứng với hiện tình. Viết cái đã qua, nhưng thật ra là đang viết cái hôm nay trên một ý nghĩa nào đó. Cũng là một công cuộc chống Mỹ đấy thôi, nhưng giá như sau năm 1975, chẳng bao lâu nhà nào cũng có tivi, tủ lạnh, thì họ sẽ viết khác. Ngược lại, nếu không may mà cái quái thai "giá, lương, tiền" kéo dài đến tận bây giờ, thì người ta lại viết về thời chống Mỹ "gớm ghiếc" hơn nhiều. Cũng không phải là người ta tùy tiện "tô hồng lên" hoặc "bôi đen ra" hết cả đâu. Đã đành trong thời chống Mỹ âm điệu chủ đạo là anh hùng, lạc quan, v.v... Nhưng đâu phải chỉ có thế, những hiện tượng "chạy dài, trốn tránh, hèn nhát, đầu thú, phản bội" không ít, nghĩa là có chất liệu để đến hôm nay người ta nhấm nháp cái tâm trạng chán ngán với hiện tình. Chỉ có thể chiến thắng tâm trạng này khi nào hiện tình được thay đổi theo chiều hướng thật sự tốt đẹp.

Về mặt hình thức, tức là vấn đề tiếp nhận của công chúng văn học, cũng phải thấy những giới hạn khách quan của nó. Cơ chế thị trường là như vậy. Ở các nước tư bản, chắc là không thiếu "tự do sáng tác", nhưng nhiều "thứ thiệt" cũng chỉ đành in ra với số lượng tượng trưng mà thôi... Cho nên, có lẽ chúng ta đang đứng ở thời điểm buộc phải tạm dùng "cái ít xấu" để chống lại "cái xấu hơn" mà thôi. Cái thật sự tốt đẹp còn chưa nhiều... Tôi muốn vạch ra đôi nét của cái giới hạn khách quan như vậy, để sự "nỗ lực chủ quan" của ta khỏi rơi vào một kiểu duy ý chí khác.

TRẦN ĐÌNH SỬ

Tự do sáng tác trong mỗi thời kỳ nói chung là khác nhau. Hiện nay, chủ đề, đề tài, phương pháp... đều do nhà văn lựa chọn mà không ai có thể áp đặt. Như vậy, trách nhiệm nhà văn cũng sẽ lớn hơn rất nhiều. Phải có sự lựa chọn, tranh luận. Phải đặt lại vấn đề phát triển phê bình văn học. Trước đây, phê bình nghiêng về chỉ ra đúng - sai về mặt quan điểm, lập trường, là công cụ của tuyên truyền, thì giờ đây phê bình cần chỉ ra cái thật, cái hay, cái đẹp, là người bạn thật sự tâm đắc của nhà văn. Đây đang là mặt yếu nhất của văn học hiện nay.

PHẠM TIẾN DUẬT

Trong bối cảnh xã hội, đất nước và thế giới hôm nay, hơn bao giờ hết, nhà văn phải suy nghĩ sâu sắc về vấn đề thiện - ác. Cái thiện - ác của hôm nay khác rất nhiều thiện - ác của trước đây. Trước đây, thiện - ác rất rạch ròi, ra trận là thiện, đào ngũ là ác; chúng ta là thiện, kẻ thù là ác; còn bây giờ, những chuẩn mực xưa không còn nữa, mọi thứ lẫn lộn, rất khó phân biệt, đòi hỏi nhà văn phải đào sâu suy ngẫm. Là nhà văn chân chính, không được trốn chạy những câu hỏi nóng bỏng của độc giả: "Chúng tôi đang đứng ở đâu đây? Chúng tôi cần phải sống với nhau như thế nào?"

VŨ QUẦN PHƯƠNG

Trong văn học ta đang nổi lên mấy vấn đề mà tôi tạm gọi là "những vết xe đổ".

- Một số người phản đối văn nghệ phục vụ chính trị một cách máy móc, thì bây giờ lại đang làm chính trị trong văn học một cách lộ liễu; kêu gọi dân chủ, tự to tranh luận, nhưng lại mạt sát những ai khác mình.

- Sự ngụy biện giữa "phản ánh hiện thực" và "suy ngẫm về hiện thực" để cho ra một thứ hiện thực trái hẳn với hiện thực cuộc sống. Thật ra văn chương bao giờ chả là suy ngẫm hiện thực. Nhưng muốn suy ngẫm đúng, phải dựa trên một hiện thực như nó vốn có. Mọi mưu toan bóp méo hiện thực dù với động cơ nào, cũng đưa văn chương vào giả tạo. Trước đây đã phê phán một thứ hiện thực phải đạo (tôi xin dùng cái chữ rất xác đáng của anh Hoàng Ngọc Hiến) sao nay lại bênh vực một hiện thực phải đạo khác?

- Cuối cùng do sáng tác là rất cần thiết và quý lắm, nhưng cũng vì thế mà nhà văn càng phải nêu cao lương tâm và trách nhiệm, không vì tự do mà viết ẩu, cẩu thả và tuyên truyền ngu dân.

LÊ QUANG TRUNG

Sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ ngoài việc tuân theo những nguyên tắc chung của công tác lãnh đạo, cần tiến hành theo các phương thức lớn sau đây:

- Phương thức tác động chung, đối tượng là cả nền văn học bao gồm định hướng, chính sách thực hiện mục tiêu và tổ chức để phát huy tiềm năng sáng tạo.

- Tác động cá biệt, khuyến khích sự độc đáo, trân trọng tài năng, khuyến khích tự do sáng tạo và đề cao trách nhiệm. Đối tượng là từng văn nghệ sĩ, loại hình, nhóm công việc.

- Tìm đến một cơ chế đánh giá chính xác. Đây là khâu cực kỳ quan trọng. Một trong những nguyên nhân của sự lộn xộn gần đây là do vấn đề đánh giá. Cơ chế này cần một hệ thống bao gồm: hệ thống biên tập, xuất bản (cần tiêu chuẩn hóa, chuyên môn hóa), hệ thống kiểm duyệt (ta chưa có nhưng nên thành lập); hội đồng nghệ thuật (thành lập theo tinh thần Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị và chỉ chị 61 của Ban Bí thư (khóa VI); hệ thống lý luận phê bình chuyên ngành và hệ thống tìm hiểu dư luận, thị hiếu công chúng một cách khoa học.

Muốn đánh giá chính xác, cần có một cơ sở lý luận phê bình khoa học. Người lãnh đạo và công chúng, qua giới lý luận phê bình, cũng có thể kiểm nghiệm và thấy sâu sắc hơn thực chất của tác phẩm. Ý kiến anh Trần Đình Sử cho phê bình trước đây chỉ đi tìm đúng - sai, theo tôi là cực đoan. Đã phê bình, ai cũng nghĩ là tìm hay - dở, đẹp - xấu, nhưng sự non yếu bất cập của nó trước tiên là ở khả năng cảm thụ, phương pháp tiếp cận, nghệ thuật trình bày của người phê bình, chứ không thể đổ lỗi cho sự chi phối của chính trị, tuyên truyền.

PHẠM XUÂN NGUYÊN

Để văn học tiếp tục phát triển, về phía nhà văn, tôi cho rằng cái thiếu nhất (như ý kiến anh Nguyễn Minh Châu lúc còn sống) là căn bản tư tưởng, căn bản triết học để có thể tạo nên những tác phẩm có sức khái quát cao.

Về phía lãnh đạo, cái mà người viết mong muốn là tự do tư tưởng, tự do ngôn luận (những điều kiện vật chất thì tất nhiên là cần rồi). Ở trên tôi có nói đổi mới là cơ may cho văn học. Cụ thể hơn: cơ may đó chủ yếu là cho những người viết bắt đầu cầm bút từ hôm nay có tự do nhiều hơn các thế hệ cầm bút trước đây. Cần tạo nên không khí tranh luận, trao đổi thẳng thắn, công khai, dân chủ, trên cơ sở thông tin đầy đủ. Cần công khai mọi thông tin, tránh những tin đồn thất thiệt hay phương pháp "quy chụp", dễ tạo nên những "giá trị giả" và những "rắc rối thật" cho một số tác phẩm.

NGÔ VĨNH BÌNH

Tôi muốn trình bày một giải pháp đầu tư mà hiện nay quân đội đang làm đối với 50 tác giả. Không áp đặt, không đặt hàng cụ thể, chỉ dựa trên cơ sở tự nguyện viết, viết về cuộc chiến tranh 30 năm đằng đẵng của chúng ta. Đây là một giải pháp đối với văn học hiện nay, một sự đầu tư không nhằm vào hiệu quả trước mắt mà là lâu dài. Đó là một tầm nhìn xa rộng. Nó giải quyết được nhiều vấn đề cơ bản, thiết thân đối với nền văn học, nhất là đối với mảng sách đang gặp khó khăn: sách viết về chiến tranh.

Từ đó tôi nghĩ cần sắp xếp lại đội hình các nhà xuất bản, phân định từng "sân riêng" với những chức năng rõ ràng, và có hướng đầu tư cụ thể của nhà nước.

KHUẤT QUANG THỤY

Hiện nay đang có nguy cơ hình thành nền kinh tế ngầm trong xuất bản, tác động rất xấu đến nhiều thế hệ mai sau. Giải quyết vấn đề này, trước hết là trách nhiệm của lãnh đạo với chức năng quản lý, điều tiết của mình.

HOÀNG NGỌC HIẾN

Về sự lãnh đạo của Đảng trong văn nghệ, tôi rất tâm đắc với ý kiến của G. Marcov (nguyên Tổng thư ký Hội Nhà văn Liên Xô) gần đây trên báo Văn nghệ: "phải chịu đựng cá tính của người khác". Chữ chịu đựng ở đây rất giỏi và rất xác đáng. Đảng, theo tôi, không phải là cái gì chung chung mà là những con người cụ thể, làm những công việc cụ thể (lãnh đạo tư tưởng, tổng biên tập, phê bình, giảng dạy v.v...). Trong các mối quan hệ công tác hàng ngày, cần biết chịu đựng cá tính người khác, bởi văn nghệ mà không có cá tính làm sao thành văn nghệ được! Cá tính không chỉ là văn phong, phong cách, tính tình, mà còn là quan niệm, ý kiến riêng của mỗi người. Thực hiện điều này không dễ, nhưng đây là bước phát triển tất yếu của xã hội, sự phát triển của mỹ học và đạo đức.

Như vậy có nghĩa là cần có không khí đối thoại, trao đổi tôn trọng ý kiến của nhau. Không thể dùng đa số để giải quyết vấn đề, đặc biệt trong lĩnh vực này.

Trong nhận thức, luôn luôn có hai hướng, tôi cho rằng gọi là tả hữu thì đúng hơn là đổi mớibảo thủ. Trách nhiệm của Đảng là tạo ra và duy trì sự đối thoại, không khí đối thoại giữa tả và hữu (đối đầu chỉ dẫn đến tàn phá), để tạo nên sự phát triển. Không chỉ trong văn học, mà trong nhiều lĩnh vực khác.

TRẦN ĐÌNH SỬ

Ý kiến của tôi từ đầu đến giờ được các anh chú ý vào trao đổi. Tôi xin ghi nhận, sau này có điều kiện tôi sẽ trình bày rõ hơn, tránh gây hiểu nhầm. Ở đây xin được nói thêm, mô hình của tôi chỉ thuần túy nói đến sự thay đổi loại hình văn học, thể tài văn học. Mỗi loại hình văn học, thể tài văn học có một giới hạn chiếm lĩnh đời sống, một sức dung chứa hiện thực. Thực tế chứng minh mô hình văn học có sức dung chứa nhiều hơn văn học cách mạng. Còn như thuật ngữ "cách mạng" hiểu theo nghĩa rộng thì "thơ mới" cũng là một hiện tượng có tính cách mạng, nhưng ta không gọi là văn học cách mạng. Mỗi tên gọi có lai lịch và hàm nghĩa lịch sử của nó.

Tôi cũng đồng ý với anh Hiến về việc cần tạo ra không khí đối thoại tin cậy, cởi mở. Chỉ có đối thoại thẳng thắn cởi mở mới làm cho các ý kiến khác nhau góp phần soi sáng thực tế và bổ ích cho sự nghiệp đổi mới.

HÀ XUÂN TRƯỜNG

Vấn đề lớn, phức tạp, những ý kiến khác nhau đã bắt đầu gây hứng khởi, nhưng cuộc tọa đàm đã không thể kéo dài. Vì chức năng của tạp chí, chúng tôi không dám mà cũng không có khả năng thay thế được Hội Nhà văn, báo Văn nghệ và các cơ quan chuyên trách. Chính vì thế, thành phần tọa đàm cũng không thể đông hơn, chúng tôi rất tiếc không có mặt nhiều anh chị mà chúng tôi chắc chắn là có những ý kiến hay, sắc sảo đóng góp cho cuộc tọa đàm này. Kết luận cuộc tọa đàm, xin để tự mỗi người. Làm trách nhiệm người chủ trì, tôi xin phát biểu lời kết thúc.

Sự đổi mới của văn học cũng như bao sự đổi mới khác là cả một cuộc chuyển động biện chứng lâu dài; khẳng định nó bắt đầu từ đâu, kể ra cũng là võ đoán. Đúng là Đại hội VI của Đảng là sự kiện quyết định cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước ta, nhưng để đi đến những nội dung mà Đại hội thông qua, Đảng ta phải qua một quá trình trăn trở, tìm tòi, có cái được, có cái chưa được, kể cả những việc làm từ Đại hội IV. Văn học thuộc lĩnh vực nhận thức xã hội thông qua cá nhân nhà văn, nên không thể không chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của xã hội và những chủ trương, chính sách của Đảng. Vì thế, sự vận động của nó là đa dạng, khi chậm, khi nhanh, khi bột phát, khi tiệm tiến... Tôi nhớ trước Đại hội VI, đầu những năm 80 trên văn đàn đã có Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn, Khách ở quê ra và một số truyện ngắn khác của Nguyễn Minh Châu; trên điện ảnh và sân khấu mà cơ sở là kịch bản văn học đã có Hy vọng cuối cùng của Trần Hoàng Bách và Trần Phương, Bao giờ cho đến tháng Mười của Đặng Nhật Minh, Nhân danh công lý của Nguyễn Khắc Niệm và Doãn Hoàng Giang, và một số vở của Lưu Quang Vũ, v.v... Đặc biệt sau Đại hội VI, tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật" được Đảng chủ trương càng khuyến khích sự sáng tạo của nhà văn, sự đa dạng và đa diện của văn học, ưu thế của văn học trong việc phanh phui các mặt của xã hội, những mảng sâu kín của con người mà trước đây trong bối cảnh của cuộc chiến tranh vì sự sống còn của dân tộc (và cả văn học và nhà văn), chưa được đề cập.

Hãy bỏ qua những mặt tiêu cực có khi đầy ắp và đáng buồn cộm lên trong hoạt động văn học, do tính tự phát của nền kinh tế thị trường, của nền sản xuất hàng hóa đang được hình thành ùa vào lĩnh vực tinh thần của xã hội mà không có sự ngăn cản thích đáng của các tổ chức và cơ quan lãnh đạo. Cũng hãy bỏ qua những thái độ tiêu cực do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, tuy không nhiều, nhưng là tất yếu của bất cứ một cuộc khủng hoảng nào. Cũng bỏ ra ngoài mưu đồ của một số rất ít những người dùng văn học làm công cụ hoạt động chính trị. Cuộc tọa đàm này tập trung đánh giá mặt tích cực của văn học mấy năm nay, chủ yếu là văn xuôi. Chính mặt tích cực đó đại diện cho sự đổi mới trong văn học.

Nếu nhà văn như "cây liễu biết suy nghĩ" thì làm sao chịu được những cơn gió mạnh, thậm chí có lúc như những cơn bão của các thủ đoạn "thị trường". Không phải nói lên gân, làm chức trách của nhà văn lúc này rất khó, phải vững và có bản lĩnh. Nhìn ở mặt tích cực, chúng ta thấy sự cố gắng, tinh thần trách nhiệm của nhiều nhà văn là không nhỏ, trên thực tế - trước hết là tác phẩm - thì rõ ràng văn học đã và đang có sự đổi mới thực sự, về mọi mặt: đề tài, chủ đề, nhân vật, cấu trúc, phong cách, văn phong, thể loại, v.v... Về một đề tài đã quen thuộc lâu nay như chiến tranh, cái mới ở chỗ đề cập đến thân phận khác nhau của con người, sự mất mát, sự đau khổ của từng con người trong những hoàn cảnh khác nhau trong chiến tranh. Nếu không miêu tả được những điều đó thì làm sao nổi bật được sự hy sinh, chủ nghĩa anh hùng của từng con người, để cả dân tộc làm nên chiến thắng. Cuộc sống xã hội một khi trở lại hòa bình, nhưng lại không ở trạng thái bình thường, mà trong trạng thái khủng hoảng, cái tiêu cực và tiêu cực xã hội xen lẫn, đấu tranh với nhau. Sự chuyển mình của xã hội lâu ngày sống trong nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp, sang nền kinh tế thị trường. Mặt phải và mặt trái của kinh tế thị trường, của cạnh tranh, của sức mạnh đồng tiền... Sự chao đảo trong xã hội, trong từng con người. Tất cả những hiện thực ấy thông qua tâm lý, hành vi của từng con người cụ thể, hình thành nên những nhân vật mới trong các tiểu thuyết, truyện ngắn mấy năm gần đây. Ánh sáng, bóng tối, đen, trắng, nhờ nhờ... đạo đức, tình yêu, tình dục... nhà văn tự do lựa chọn bằng sự mẫn cảm của mình. Về đề tài cải cách ruộng đất đã có hàng chục tiểu thuyết và truyện ngắn đã đề cập. Điều mà bạn đọc hay chính chúng ta - những người sáng tác và phê bình - nhận xét có tính phê phán một số tác phẩm về loại này, không phải ở sự miêu tả các mặt phản diện, thậm chí bi thảm của những sai lầm, mà là sự nhận thức một chiều, sai lệch cả một cuộc cách mạng ruộng đất đưa đến giải phóng người nông dân, những người lính chân đất góp phần quyết định vào chiến thắng Điện Biên Phủ, tạo nên những bộ mặt mới ở nông thôn nước ta. Không khí tự do là thực sự trong sự vận động đổi mới của nền văn học nước ta. Sự lựa chọn tác phẩm để trao giải thưởng văn học vừa qua của Hội Nhà văn, và những truyện ngắn dự thi cùng với những phóng sự điều tra của báo Văn nghệ vài ba năm nay, là những chứng minh cụ thể những điều nói trên.

Nhưng... Đúng là có chữ "nhưng" to tướng còn che lấp tính mới mẻ của văn học nước ta - như nhiều anh em đã đề cập đến mặt hạn chế, thậm chí mặt méo mó của hiện thực được phản ảnh, được nhận thức trong một số tác phẩm, kể cả những tác phẩm được chúng ta đánh giá cao. Đáng chú ý là đã có hiện tượng tác giả tự lặp lại mình và lặp lại lẫn nhau, muốn tránh cực đoan này lại rơi vào cực đoan khác. Cái "mới" vẫn là cái "cũ" - mặc dù tên sách, nhân vật, tác giả khác nhau. Hơn nữa, cái mới vừa qua nói chung còn dừng ở sự đề cập đến nhiều điều mà trước đây chưa được đề cập. Nói như anh Phạm Tiến Duật, về đề tài, nhân vật, vấn đề, chưa ra khỏi những vấn đề của các nhà văn Tự lực văn đoàn, và nhiều nhà văn khác trước cách mạng, cái khác là trong bối cảnh nước ta hiện nay. Cái xu thế mới, những vấn đề của một thời đại mới ở nước ta, những nhân vật mới ví như những trí thức mới, những nhà khoa học, những nông dân mới, những công dân mới, những nhà kinh doanh, v.v... Nói tóm lại, những bộ mặt mới, những anh hùng mới của thời kỳ chuyển động mới của đất nước, còn quá hiếm hoi, nếu có thì rất mờ nhạt, trong văn học đổi mới của ta hiện nay. Tôi chợt nghĩ đến nền văn học Phục hưng, nền văn học "Ánh sáng" của Pháp, những nền văn học đấu tranh, báo hiệu cho một xã hội mới của nước Pháp. Cùng với sự nhận thức, khám phá mới đối với quá khứ, cần có sự nhận thức, khám phá ngày hôm nay và tương lai đất nước. Phải chăng ở đây có sự hạn chế về trình độ, về nhận thức, về trách nhiệm công dân mà các nhà văn chúng ta phải vượt qua để thực sự mở ra một thời kỳ mới cho nền văn học?

Cuối cùng, tôi xin phát biểu vài ý về sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn học, một vấn đề quá cũ, nhưng vẫn tồn tại. Qua một sự chuyển biến của cách mạng, vấn đề lại được đặt ra: sự lãnh đạo và phương thức lãnh đạo. Nội dung chủ yếu của Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị (trung ương khóa VI) là đề ra phương hướng và một số biện pháp để giải quyết vấn đề ấy.

Nền văn học của mỗi nước là do đội ngũ nhà văn của nước đó quyết định. Không ai sáng tạo ra nền văn học của một nước ngoài những nhà văn của nước đó - tất nhiên tôi không hề coi nhẹ phong trào văn học của  quần chúng. Ở thời đại nào cũng có nền văn học của nó. Ở thời đại chúng ta, có Đảng lãnh đạo, tôi nghĩ cũng không thể ra ngoài quy luật đó. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nền văn học là từ thực tiễn của văn học mà có chủ trương, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho nó phát triển. Điều quan trọng nhất của sự phát triển văn học cũng như của mọi lĩnh vực tư tưởng và tinh thần là tự do. Dưới sự đô hộ của thực dân và phong kiến, Đảng ta đấu tranh cho quyền tự do yêu nước, quyền tự do sáng tạo vì lẽ phải của cuộc đời, chống cường quyền, áp bức, thì một khi Đảng ta đã trở thành đảng cầm quyền, tất yếu Đảng phải tạo điều kiện cho sự thực hiện quyền tự do đó, bằng mọi cách, trong đó có sự đảm bảo cho các khuynh hướng lành mạnh vì chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa đủ sức tự mình chiếm được địa vị ưu thế trong xã hội (kể cả những trợ cấp xuất bản, chăm lo tới đời sống vật chất của nhà văn...). Thời gian vừa qua, chỉ thị, nghị quyết không thiếu, nhưng trên thực tế là buông trôi, cái buông trôi lớn nhất là để cho khuynh hướng thương mại, thị trường tự do lấn át, thậm chí khống chế các hoạt động văn học chân chính. Trong lúc đó sự chỉ đạo nặng từ trên xuống, mà thiếu sự xuất phát từ nghiên cứu thực tiễn của tình hình. Sự lãnh đạo của đảng cầm quyền đối với văn học không phải là đảng nắm lấy văn học, tạo nên văn học của đảng, mà là tạo điều kiện cho nền văn học dân tộc phát triển, giúp đỡ cho những người tạo ra nền văn học đó - những nhà văn và những người viết văn - điều kiện vật chất và tinh thần để tự họ, bằng bản lĩnh của họ làm nên tác phẩm, tạo nên những giá trị thực sự của nền văn học xã hội chủ nghĩa.

Anh Trần Đình Sử có nói tới "văn học cách mạng" và văn học. Một số anh đã phát biểu chung quanh vấn đề nêu lên. Tôi cho rằng dù giải thích cách nào, sự phân chia như vậy là không ổn. Cách mạng và tiến hóa, cao cả và đời thường, cộng đồng và cá nhân là những quan hệ gắn liền với nhau, cái này chứa đựng những yếu tố của cái kia, cái này vì cái kia. Tiến hóa là vĩnh viễn, cách mạng không phải là thường trực, nhưng là cần thiết cho sự tiến hóa. Vì sự tiến hóa mà có cách mạng. Cách mạng hiểu theo nghĩa nào? Là thay đổi toàn bộ cái thực trạng bất hợp lý, hay là những yếu tố làm động lực cho sự đổi thay? Hiểu theo ý nghĩa chính trị hay quan điểm tiến hóa? Lấy đặc trưng và tiêu chí nào để đánh giá văn học nào là văn học cách mạng, văn học nào là văn học. Đề tài? Nhân vật? Tác giả? Thật là khó nói và gượng ép. Văn học có nhiều khuynh hướng, mỗi nhà văn là một cá tính, nhưng tất cả đều không thoát khỏi sự chi phối của lịch sử. Đánh giá văn học phải theo quan điểm lịch sử, chính vì vậy mà có sự phân chia thời kỳ, giai đoạn, các khuynh hướng, v.v.. Vì tính hạn chế của cuộc tọa đàm, chúng ta có thể trao đổi vấn đề này vào một dịp khác, với một thành phần rộng rãi hơn.

Còn vấn đề tôn trọng tự do và cá tính, tôi cho rằng đổi mới quan trọng nhất trong sự lãnh đạo của Đảng đối với văn học là dựa trên sự phát huy tự do tư tưởng và tôn trọng cá tính theo phương châm phát triển "tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của mọi người". Có "mỗi người" và có "mọi người", nghĩa là có cá nhân và cộng đồng. Tự do, cá tính không thể trực tiếp chống lại, càng không thể làm hại tới lợi ích của cộng đồng, lợi ích chính đáng của người khác. Giới hạn của tự do cá nhân là sự thực thi dân chủ trong kỷ cương. Một chế độ dân chủ là chế độ có luật pháp. Nước ta đang phấn đấu tới một nhà nước pháp quyền, chính là để đảm bảo cho tự do cá nhân, và tôn trọng cá tính.

Đổi mới trong văn học, điều quan trọng nhất, quyết định nhất là cái nhìn và cái tâm của nhà văn. Đề tài, nhân vật, phong cách, cá tính không là cái gì, nếu không có được cái nhìn mang tính thời đại sâu sắc, thấu suốt nhân tình, nếu không có được một cái tâm trong sáng, nhân ái cộng với ý thức đầy đủ về chức trách cao cả của văn học (mà nhà văn là sứ giả) đối với con người, đối với cuộc đời, với nhân dân mình. Không có những cái đó thì không có đổi mới. Đổi mới văn học, đồng nghĩa với sự phát triển văn học, còn tùy thuộc vào sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới của dân tộc.

VÕ ĐĂNG THIÊN lược thuật

 

 

Nguồn: Tạp chí Cộng sản, Hà Nội, số 11 (tháng 11-1991); số 12 (tháng 12-1991)

Mục lục 

5-9-19