ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ
THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI
 

Mục lục 


Nguồn:  Văn nghệ, Hà Nội, số 30 (29-7-1989)

 

THƠ -- TỪ NGƯỜI VIẾT ĐẾN NGƯỜI ĐỌC

 

NGUYỄN BÙI VỢI – Thơ và việc in thơ hiện nay

 Có một thời gian dài, thơ trên báo là thơ vụ việc, phục vụ sát sao các ngày lễ, các chủ điểm tuyên truyền, thời sự. Kịp thời và không sai sót về chính trị: đó là tiêu chuẩn hàng đầu, còn chất lượng nghệ thuật thì được sao xào vậy!

Mãi thành quen, người làm thơ và người biên tập đều thấy thế là phải. Nếu mới tháng Một mà nhận được thơ về thương binh liệt sĩ, có khi biên tập viên lại... ngạc nhiên, cho người viết là... hâm!

Kiểu in thơ ấy không mấy khi có được bài hay và khổ nhất là người đọc cứ phải đọc những bài thơ cái gì cũng đúng cả nhưng xoàng xĩnh, tầm thường. Dĩ nhiên trong thời gian ấy, báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam đã hạn chế được khá nhiều loại thơ "mậu dịch thu mua" ấy (từ dùng của cố thi sĩ Xuân Diệu) để in được nhiều bài thơ đích thực có thể sống lâu dài trong lòng bạn đọc...

Rồi sau Đại hội Đảng lần thứ VI, sau Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác văn hóa văn nghệ, sáng tác văn học có khởi sắc. Cùng với các thể loại khác, thơ trên mặt báo đa dạng hơn, chân thực hơn. Không ai cấm ta nói đến nỗi buồn, nỗi đau nếu nỗi buồn, nỗi đau ấy không làm con người tuyệt vọng. Nhà thơ đưa lên trang giấy những chiêm nghiệm, nếm trải qua số phận cá thể nên sự tự biểu hiện đã vẽ nên những gương mặt thơ không ai giống ai làm cho thơ phong phú hơn trước. Thời gian này có một số bài thơ "chống tiêu cực" ra đời, đáp ứng được sự đồng tình nhất thời của một số bạn đọc. Những bài thơ ấy có khi đã sử dụng nhầm chất liệu của ký, phóng sự, tân văn. Cũng có người quay ngoắt 1800, hôm qua cái gì cũng ngợi ca, hôm nay thì cái gì cũng chửi bới. Hơn thế nữa lác đác đây đó một số bài thơ có giọng điệu chửi đổng hằn học. Bạn đọc nhiều người hoang mang, không biết thẩm định giá trị tác phẩm như thế nào?

Việc xuất bản các tập thơ tác giả bị đình trệ. Phát hành không nhận số lượng hoặc nhận rất ít, thơ in bị lỗ nên nhà xuất bản không dám in. Cũng một thời gian in theo kiểu bao cấp, các nhà xuất bản đã in thơ theo nhiều tiêu chuẩn: tập này phục vụ nhiệm vụ chính trị nóng bỏng, tập kia là của một đồng chí có cương vị cao, tập này là của đồng chí có công lao trong công cuộc chống Mỹ, tập nọ của ông thường vụ, bà chấp hành... Mọi việc đều êm cả ở một nước mà dư luận xã hội bị coi thường như ở nước ta. Các tập thơ vào thư viện, vào tủ sách cơ quan, nếu còn thừa thì bán giấy cân, ai biết. Có một nhà phê bình khen thế là tập thơ tốt, còn anh không thấy hay vì anh không biết đọc thơ hoặc lập trường quan điểm kém không cảm nhận được nội dung sâu xa của tác phẩm!

Ngành phát hành sách hôm nay có lẽ đã hoảng hồn vì thời thơ bao cấp ấy nên đã tỏ ra vụ lợi và cực đoan trong việc từ chối thẳng thừng việc đặt số lượng thơ của các nhà xuất bản.

Ai cũng biết ở nước nào cũng thế, số người đọc thơ rất ít vì thơ không dễ cảm nhận như ở các thể loại khác. Nó nó bằng biểu tượng, ẩn dụ, có khi phải dùng cả trực cảm để nhận ra cái hồn ở ngoài câu chữ. Ở một nước hơn 60 triệu dân, làm gì không tiêu thụ nổi 2000 bản thơ! (dĩ nhiên là thơ có chất lượng còn thơ dở thì... "cho không lấy, thấy không đọc"). Tất nhiên trong một xã hội nhiều biến động, xáo trộn như xã hội ta, nhiều người không đủ tĩnh tâm để ngẫm nghĩ về sự thâm thúy của một câu thơ thức tỉnh, nhấm nháp sự thú vị của một từ thần. Dù thế đi nữa, nếu ta in thơ một cách chọn lọc, thơ vẫn có một nhịp sống bình thường.

Dân ta không ít người thích thơ. Trước đây, các ông Hoài Thanh, Xuân Diệu đã "đem hàng thơ đến tận người tiêu dùng" (cũng vẫn cách nói của nhà thơ Xuân Diệu). Mỗi ông trong đời mình đã bình thơ hai, ba trăm cuộc trước công chúng thuộc mọi đối tượng. Bây giờ một số nhà thơ, nhà phê bình lớp sau đã tiếp nối có hiệu quả công việc của lớp đàn anh. Cho nên bảo rằng thời buổi này, công chúng chán thơ là không đúng. Nhưng chắc chắn là công chúng chỉ thích những bài thơ hay, những bài thơ nói hộ cho họ những nỗi niềm, những suy nghĩ để họ giữ vững niềm tin vào con người, vào cuộc đời. Đấy là những bài thơ liên quan đến những buồn vui, lo toan của họ.

Trước con đường in thơ bị tắc như thế, một số tác giả vận dụng phương châm "nhà nước và nhân dân cùng làm" tự bỏ tiền ra nhờ một nhà xuất bản in tập thơ của mình. Số tác giả ấy có người dư dật, có người đủ ăn, có người túng thiếu. Có người đã theo đuổi công việc nghiệt ngã này 20, 30 năm. Cũng có người chưa lăn lộn trả giá gì mấy (thậm chí chưa có bài thơ nào in trên mặt báo) nhưng có tiền thì in!

Sự cố gắng của các anh, chị ấy đều đáng quý. Nó mở ra một cách làm để giải tỏa sự tắc lại của việc in thơ bấy lâu nay. Bỏ tiền ra in, tác giả được quyền chọn những bài mình thích, biên tập viên của nhà xuất bản chỉ cân nhắc liều lượng, chú ý mặt chất lượng chính trị của bản thảo chứ không cửa quyền như thời in bao cấp.

Các tập thơ ấy có tập trung bình, có tập khá, có tập có bài hay, có tập nhạt nhẽo và không phải không có vài tập có những bài thơ tắc tị, bí hiểm, bệnh hoạn. Ở các tập thơ này, người biên tập và người chịu trách nhiệm xuất bản đã bỏ mất vị trí của mình.

Trong khi đó, ở nhà xuất bản Tác phẩm mới của Hội Nhà văn Việt Nam có một số tập thơ có chất lượng vẫn nằm đó "im lặng một cách đáng sợ", vẫn có một số tác giả được in theo chế độ bao cấp bên cạnh những tác giả phải bỏ tiền ra in hoặc nhận phát hành một phần lớn tập thơ của mình! Đó là điều không công bằng.

Trước tình hình thơ hiện nay, xin có một số đề nghị:

- Các nhà xuất bản nên giữ nhịp độ in thơ bình thường như những năm trước đây nhưng phải lấy chất lượng bản thảo làm tiêu chuẩn hàng đầu. Thơ khá, thơ hay nhất định bán được. Nhà xuất bản phải hoạt động kinh doanh nhưng không thể vụ lợi để cứ có tiền là in được, dở hay kệ miễn là không sai phạm chính trị!

- Hội Nhà văn nên cố gắng bảo trợ cho nhà xuất bản của Hội một số tiền cần thiết hàng năm để nhà xuất bản có thể in thơ bình thường (bỏ hẳn kiểu tác giả bỏ tiền ra in). Nhà xuất bản của Hội nếu in thơ theo tinh thần đổi mới, chắc sẽ được ngành phát hành hưởng ứng, tác giả và bạn đọc đồng tình.

PHAN CUNG VIỆT   Đậm và nhạt

          Chỉ nói về thơ ta. Chưa có những thống kê có tính xã hội học. Chỉ nói cái cảm nhận của người làm thơ (thực ra nó cũng đã có tính khoa học rồi). Có một số tập thơ không nhạt, có nhiều tập nhạt. Có tác giả quãng này nhạt, quãng trước lại không nhạt, trong nền thơ có hiện tượng một bài nhưng lại không nhạt chút nào. Có khi chỉ một bài thơ mà dư âm đậm hơn cả một tập, một đời thơ.

Không nên bi quan cho thơ, là thơ ta đến nay không chỉ một, hai bài, mà có những tập thơ không nhạt hoặc một phần không nhạt. Có dành cho thơ một tỷ lệ phần trăm sống thật cao mới thấy khó và mới thấy điều đáng mừng này.

Không dám nói về đại thi hào như Nguyễn Du. Tôi nhấm lại vị thơ, như nhấm ngọn chè xanh, và thấy nhiều lắm các nhà thơ xưa không nhạt. Có thể thời gian đã lắng lại chăng? Vâng, thời gian là cần đối với thi sĩ.

PHẠM NGỌC CẢNH   Ai còn, ai mất trong thơ

Tôi vừa được in một tập thơ ở nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hẳn là nhà xuất bản không vui. Vì trân trọng một tác giả mặc áo lính, vì trân trọng một nghề vẫn cao quý mà họ phải chịu lỗ một khoản tiền. Tôi cũng không thích thú gì. Phải mang một cái ơn không đáng mang. Và cuốn sách cũng sẽ chìm lỉm vào cuộc đời đen bạc.

Tôi cũng vừa hoàn thành một chuyến đi hầu chuyện thơ (chữ dùng của Xuân Diệu). Người đến nghe của chừng ấy buổi cộng lại còn cao hơn số lượng bản in tập thơ vừa rồi. Và tôi xin được phép không so sánh khoản tiền thù lao của hai công việc (xuất bản miệng và xuất bản trên giấy!). Cái được giá hơn là người ta nghe mình, người ta đồng tình với mình và người ta sẵn sàng chờ đợi.

Có một tình hình rất thực như thế trong đời sống xã hội hiện nay. Tình hình đó nằm ngoài đời sống thơ mà chúng ta đã mất nhiều thế hệ vun đắp. Chúng ta đã vun đắp một quang cảnh rực rỡ của thơ ca ngày còn đánh giặc không phải bằng sự tính toán lỗ lãi trên số của máy tính. Chúng ta vun đắp bằng linh hồn của đời sống, bằng tâm linh của mỗi con người.

Thơ cộng hưởng vào sự vun đắp ấy một cách có hiệu quả. Hiệu quả ấy vẫn còn trong đông đảo người yêu thơ.

Nhưng đời sống đã thay đổi - mỗi con người cất giữ cái tiếp nhận được của thơ như một kỷ vật và nóng lòng chờ đợi cuộc tiếp sức mới của thơ ở thời kỳ mới, thời kỳ mà họ đang sống vật vã, khó nhọc. Có một lúc thơ chững lại như một người đuối sức, như một người chớm mắc bệnh tâm thần. Các nhà thơ đã bừng tỉnh, cố vượt lên và đã đuổi kịp đời sống. Không phải tất cả các nhà thơ đã vượt lên được, song ai còn có mặt hôm nay đều đã là những người dũng cảm.

Người tiếp nhận sự đổi mới này trong thơ cũng vẫn là đông đảo bạn đọc chứ không phải các nhà phê bình. Ngay thời xa xưa, bạn đọc cũng đã biết tiếp nhận như thế. Mặc cho các nhà hướng dẫn thẩm mỹ nói tràng giang đại hải, bạn đọc vẫn nhặt ra được phần hay nhất của thơ thời đánh giặc. Con cái họ phải thuộc, phải khen, phải bình nhà thơ này, bài thơ nọ để hoàn tất một cuộc sát hạch lực học. Còn họ, họ tâm đắc với cái gì thật đáng yêu, đáng nhớ để bổ sung vào sự thiếu hụt trong đời.

Thơ ngày xưa (trong thời đánh giặc) in ra một số lượng vừa đủ cho các thư viện, các tủ sách. Người phụ trách thư viện mua thơ bằng ngân phiếu của nhà nước. Chỉ người thật yêu thơ mới mua bằng tiền túi của mình. Bây giờ hình như hệ thống thư viện ấy teo nhỏ lại, ngân sách ấy teo nhỏ lại thì khoản bản in thơ dôi ra là phải. Lại nữa, người thật yêu thơ bây giờ cũng nghèo lép đồng tiền. Mua báo phải cân nhắc tính toán chi li.

Các nhà xuất bản không in thơ. Xin các nhà thơ đừng trách họ. Nỗi khổ này không của riêng ai. Nếu có trách là để họ tự trách. Vì họ là cơ quan làm văn hóa. Cơ quan gìn giữ văn hiến cho dân tộc này, đất nước này.

Những người đã từng đến nghe tôi hầu chuyện thơ cũng phải bỏ tiền ra mua một đêm vui. Họ không tính lỗ lãi. Bởi vì đồng tiền ấy là văn hiến, là tấm lòng. Nếu là đồng tiền thương mại, hẳn họ mua phân hóa học để bón cho cây trồng, sau 90 ngày là thu hái.

Tôi cứ nghĩ đến một hiện trạng xã hội không thi sĩ, không thơ ca mà sợ đến rợn người. Sợ hơn sự tàn phá của cơn bão số 3, số 7. Sợ hơn côn trùng phá lúa. Bởi vì khắc phục một xã hội không thơ là điều một đấng anh minh, một cơ chế tài ba không dễ làm nổi.

Điều đó không thể xảy ra. Vì tôi tin vào bạn đọc, tin vào người yêu thơ vẫn còn. Còn mãi. Chỉ e ngại thơ không chuyển mình theo họ.

Và điều này lại có thể xảy ra. Đó là các cơ quan quản lý, xuất bản vì sự được mất nặng nhẹ của đồng tiền lợi nhuận mà đánh rơi cái quý giá của đất nước, của con người.

PHẠM TIẾN DUẬT   Mã và giải mã

Cách đây mươi năm, tôi có sưu tầm được một bài thơ, trong đó có hai câu sau đây:

Hoa chưa nở, ớt ngoài vườn đã chín

Cơn mưa chưa giột đã nguôi lòng.

Tôi đem hai dòng ấy ra đố bạn bè rằng đấy là thơ ai, sáng tác vào thời nào. Có người trả lời là thơ thiền đời Lý, có người lại bảo là từ khúc của Trung Quốc, đời Tống. Không, đấy là thơ của một thanh niên thời nay ở phố Quảng Oai (Ba Vì, Hà Nội) làm nghề quay mỳ sợi. Anh ta còn có những dòng thơ vừa tội nợ, vừa khó hiểu như câu "Khi ngủ lòng bày như mảnh cói". Người thanh niên ấy tôi chỉ gặp có một lần và chỉ biết là anh ta vẫn làm những việc khiêm nhường trên cái phố khuất vắng ấy.

Một lần khác, tôi có chép được mấy dòng thơ của một ông già ở xã Nam Hoành (Nam Đàn, Nghệ An) trong đó có dòng "Sống ở đời là thế, cởi nhau bằng tình, trói nhau bằng nghĩa" chữ thì thô kệch, nhưng ngẫm ý tứ thấy rất tinh xảo. Lại một lần khác nữa, tôi đọc được một dòng thơ của một anh kỹ sư địa chất, câu thơ viết có nghiền ngẫm: "Vì quý bạn ấy cho nên nể vợ". Những dòng thơ như thế có không ít trong sổ tay của biết bao người yêu thơ mà không phải là nhà thơ.

Tôi xin tiết lộ thêm rằng, thơ của anh thanh niên Quảng Oai là thơ của người bị bệnh tâm thần phân liệt. Thơ của ông già Nam Hoành là thơ của người hai vợ. Còn dòng thơ của anh địa chất là thơ của người ham rượu chè. Nét chữ biểu hiện nết người đã đành mà nét thơ biểu hiện nết người còn rõ hơn nữa.

Tôi đưa ra mấy ví dụ trên đây để thêm một lần nữa nói rằng sự phân cách giữa người đọc và người viết là một phân cách tương đối.

Không biết bạn đọc thời Nguyễn Du đọc thơ như thế nào? Có điều, quần chúng của thơ hồi ấy chia ra làm hai loại rõ rệt: có chữ và không có chữ. Số người không có chữ nhiều hơn so với số người có chữ. Văn học Việt Nam thế kỷ XIX trở về trước, tuy đã có văn xuôi như tập Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác nhưng thơ ca vẫn giữ vị trí độc tôn. Sách thuốc, sách địa lý đến chiếu, biểu của triều đình cũng vẫn theo mẹo mực của thơ khi ấy, có điệu, có vần. Mặc dầu nền văn chương bác học phát triển tới mức rực rỡ mà phương tiện truyền đạt từ người sáng tạo đến người thưởng thức chủ yếu vẫn là phương tiện truyền miệng. Khi "người đọc" nghe nhớ làm chính, ghi nhớ là phụ, người thưởng thức tác động như thế nào đến người sáng tác? Có, có tác động mạnh mẽ đến hình thức của thơ ca: muốn nghe nhớ thì thơ phải có điệu, có vần. Ngôn ngữ phải phục tùng quy luật thuận tai. Chỉ những nhà thơ kiệt xuất nhất của thời ấy mới dám phá vỡ các quy tắc âm thanh quen thuộc và không phải lúc nào cũng chiều theo số đông.

Quần chúng của thơ ca ngày nay đã hoàn toàn khác. Không những có chữ mà số đông trong họ còn có văn hóa cao về nhiều lĩnh vực khác nhau. Phương tiện truyền đạt của thơ ca bây giờ cũng phong phú hơn trước nhiều, cả phương tiện nghe đến phương tiện nhìn. Các hình thức nghệ thuật khác, đặc biệt là âm nhạc và điện ảnh có tác động một cách mạnh mẽ không chỉ đến quần chúng của thơ mà còn đến các nhà thơ một cách tự giác hay không tự giác. Sự phá vỡ đáng kể của đời sống nông thôn để biến thành thành thị cùng sự xáo trộn dữ dội của nhịp điệu công nghiệp cũng làm thay đổi thị hiếu của cả người đọc lẫn người viết.

Bộ sách Đại nam nhất thống chí, một tập sách địa lý - lịch sử của Quốc sử quán triều Nguyễn soạn là một bộ sách có nhiều câu văn tinh vi của thơ ca. Về một nguồn nước ngon, sách ấy viết: "Ở đấy - một địa phương miền Trung - nước ngon rất hiếm. Ở gần núi thì cấp bách quá, ở gần biển thì trì trệ quá, muốn kiếm nước quý không cấp bách mà không trì trệ thì chỉ có suối Hươu Hươu là ngon hơn cả...". "Nước ở đó, khuấy cũng không đục hơn mà lọc cũng không trong hơn". Dùng chữ như thế là kỹ lưỡng và tinh khéo lắm. Văn ở chỗ không văn còn trọng sự tinh khéo thế huống chi trong thơ.

Ấy vậy mà trong thơ ta mấy năm nay, trong sự thưởng thức của tôi thấy rất hiếm sự tinh vi. Nhiều tác giả trẻ quá ham chuộng sự ồ ạt như là nhân danh thời hiện đại - sống hiện đại, yêu hiện đại, thơ hiện đại. Mắt thời gian, nỗi buồn đứng, vú đêm, óc não thế kỷ... nghe ồ ạt mà lười biếng, dễ dãi. Hay là phải bỏ qua chữ nghĩa mà chỉ nên thưởng thức bằng "chuỗi cảm giác", thưởng thức bằng "trường ấn tượng"? Ấy là chưa kể đến những bờ mi, bờ mắt, bờ môi, bờ vai tràn lan trong những câu thơ làm dáng khác.

Thơ có vần thì lấy vần làm sự ràng buộc, thế còn thơ không vần thì lấy gì làm mực thước? Hay là nhà thơ cứ hô "xung phong"! thế là chữ nghĩa vần và dài, xuống dòng và không xuống dòng, bậc thang và không bậc thang cứ ào ạt ấn tượng mà tiến lên chiếm lĩnh toàn trang!

Cũng có thể người viết ồ ạt vì người đọc ồ ạt quá. Hay tại vì người đọc thây kệ, không chấp?

Dường như thơ ca đang gặp khó khăn trên toàn cầu. Các nhà thơ, cả phương Đông lẫn phương Tây, đều kêu ca về việc in thơ, bán thơ rất khó. Có người cho rằng công chúng đang dần dần bỏ thơ mà đi. Thời hiện đại là thời kỳ của những ấn tượng cực mạnh, của những khêu gợi và kích động bằng tần số cao? Thế mà thơ cứ tồn tại một dáng mảnh dẻ, yếu ớt. Người ta gọi thơ là nàng chứ có ai gọi thơ là anh, là ông thơ mày râu đâu?

Gần đây, có một nhà văn khi được một tòa báo phỏng vấn rằng tại sao lại bỏ thơ để viết văn thì nhà văn ăn khách này trả lời đại ý rằng thơ bị hạn chế nên phải chuyển sang văn xuôi. Một bạn đọc có mắt xanh nói với tôi rằng lẽ ra nhà văn ấy nên nói rằng: với mình thì sức biểu hiện của thơ bị hạn chế. Chứ có những tập tiểu thuyết tràng giang đại hải mà chẳng nói được gì mà chỉ bốn dòng thơ, thâu tóm được cả một thời, thì sao?

Không, không nên kiểm tra sự lâu bền của thơ bằng thị trường. Không nên đánh giá rượu ngon ở chỗ tạp thực.

Khi nào trái tim người này còn cần đến trái tim người kia, khi nào linh hồn con người còn cần được nâng giấc, khi nào tinh thần con người cần chống lại sự dày xéo, khi nào tình cảm con người còn đòi sự thăng bằng - khi nào con người còn tồn tại khi ấy còn thi ca và người đọc thi ca.

***

Có 10 trường hợp không nên đọc thơ:

1 - Những lúc thái quá của những cảm giác vật lý: còn no quá, đói quá, rét quá, nóng quá.

2 - Lúc vừa cãi nhau với vợ, với chồng, với người yêu. Những lúc quá tức giận.

3 - Ngay sau khi được lên lương, lên chức hoặc thăng trật, chuyển đổi thất thường.

4 - Những lúc có quá nhiều màu sắc và âm thanh.

5 - Những lúc trong lòng quá nhiều vướng bận chưa tháo gỡ được.

6 - Khi ngồi đối diện với chính tác giả.

7 - Khi chưa tạm gạt được ra sau lưng tất cả các bài thơ, tác giả và lối đọc mà mình quen thuộc.

8 - Khi cầm lên tay trang giấy chưa thấy nóng lạnh, đêm ngày.

9 - Sau khi uống mật ong hoặc thứ gì đó na ná như mật ong.

10 - Khi quá 10 ngày không ốm mà không ra khỏi cửa nhà mình.

***

Tôi quê ở vùng chè. Tôi tìm thấy sự so sánh này: người làm thơ giống như người làm trà và người đọc thơ giống như người uống trà vậy. Từ những ngọn búp của cái cây đời xanh tốt trên nương kia nhà thơ thu thập về, dùng nhiệt độ của tâm hồn mình mà sao, mà sấy, mà thu nhỏ khối lượng tài liệu búp chè thành khối trà thơm. Điều kiện của người đọc thơ cũng giống như điều kiện của người uống trà: phải có một ít nước sôi của tâm hồn mình. Có thế thì đôi bên mới gặp nhau được.

Người làm thơ dùng một lượng chữ rất ít để mã hóa đời mình. Còn người đọc là người giải mã. của thi ca khác mã của thông tin ở một điểm: nhà thơ phải bằng cách nào đó để chìa khóa mã ngay trong bài thơ của mình và bằng cách tự nhiên người đọc có được. Có phải thế hay không?

NGUYỄN HOÀNG SƠN   Ai đọc thơ bây giờ

Lâu nay người ta vẫn nói đến thơ như là sự chiếu cố với ít người là một sự "cực chẳng đã", không có thì áy náy, có thì thừa. Tâm lý của người tiêu thụ (người đọc) tác động đến người cung ứng (người xuất bản và phát hành) từ đó gây ảnh hưởng đến người sản xuất tức là nhà thơ. Người ta thường bảo rằng nhà thơ là người dù thế nào vẫn không thể từ bỏ thơ ca.

Bây giờ thì những sự cấm đoán đã bớt đi rồi. Lâu nay trong mỗi nhà thơ đều có một "nhà biên tập". Nhà biên tập này canh gác mỗi vần thơ sắp ra đời, gọt giũa làm sao cho nó tròn trặn hoặc nếu có "gai góc" thì chỉ trong mức độ cho phép thôi. Nhưng cuộc sống mới phát triển đều phải vượt lên những phép tắc mà một thời dù thành văn hay bất thành văn, được thực hiện phần lớn qua những người biên tập ở các báo và các nhà xuất bản. Cho nên có thể xét đến cùng những người xuất bản, biên tập phải chịu trách nhiệm về những sản phẩm mà mình đưa đến cho bạn đọc.

PHẠM ĐỨC – Công chúng và nhà thơ

Bạn đọc thơ là lớp bạn đọc tinh, có chọn lọc và thủy chung. Số đó không ít nhưng chiếm tỷ lệ nhỏ trong bạn đọc. Vậy nên việc thơ được in số lượng ít cũng coi là bình thường.

Một hướng giải quyết là: Các nhà thơ có quyền và cần phải tuyên truyền (bằng nhiều cách) cho thơ nói chung, và thơ của mình. Gọi là quảng cáo ư? Bày tỏ ư? Hướng dẫn ư? Cũng được cả. Tóm lại là thơ phải tìm cách đến với công chúng của mình.

Đấy là sự đánh động, và rồi những người tâm đắc sẽ một mình tìm đọc lại bài thơ, câu thơ yêu thích dưới ánh đèn khuya.

Một phần quan trọng nữa để tin vào công chúng thơ chính là sự chuyển động của thơ gần đây. Có nhiều sự bung ra quá đáng (cả nội dung hình thức, cả phương thức xuất bản) nhưng nhìn chung là có một luồng không khí mới. Và ngay cả sự thất bại cũng cho các nhà thơ bài học nào đó. Ví dụ sự đổi mới trong thơ là thế nào? Mức độ nào? Với đặc trưng nào?

Phải bằng sáng tác của mình các nhà thơ giữ và giành thêm công chúng. Và các nhà thơ thật hạnh phúc vì chắc chắn có công chúng đón những bài thơ tâm huyết và chính của mình.

BẾ KIẾN QUỐC   Tình hình xuất bản thơ gần đây

Sau thời gian quãng vài ba năm chững lại, thơ chúng ta bắt đầu bộc lộ những dấu hiệu rõ rệt của một sự khởi sắc đáng mừng. Gắn bó với đời sống thật, để đón nhận những xúc cảm chân thực, và lắng nghe tiếng vang của đời sống trong mọi ngóc ngách sâu xa của tâm hồn với đủ các cung bậc buồn vui - thơ giờ đây đang cố gắng chiếm lại vị trí của mình trong công chúng.

Vậy nhưng, chính lúc này, thơ đang đứng trước một khó khăn to lớn. Đó là khó khăn ở khâu xuất bản và phát hành. Tất cả các nhà xuất bản đều không muốn in thơ, và các công ty phát hành sách đều không nhận phát hành thơ. Vì lý do kinh doanh. Trong các hiệu sách, họa hoằn lắm mới thấy bày bán một hai tập thơ. Điều ấy thật không bình thường!

Đồng thời, lại xuất hiện một tình hình khác: Chỉ trong hai năm 1988, 1989, ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, và các địa phương, rất nhiều tập thơ riêng của các tác giả đã được in (có lẽ cả 10 năm trước đó cũng chỉ đến ngần ấy số đầu tập được in ra mà thôi!). Ngay với một nhà nghiên cứu phê bình chuyên về thơ (chẳng biết bây giờ có còn một nhà nghiên cứu phê bình nào như thế nữa không nhỉ?) hẳn cũng khó lòng có đủ trên giá sách tất cả những tập thơ đã in trong hai năm vừa qua.

Có tình hình ấy, bởi các nhà xuất bản đã đưa ra một phương thức: sẽ xuất bản (hay là chỉ xuất bản?) tập thơ nào mà tác giả của nó có thể chủ động lo liệu được các khâu giấy má, in ấn, thậm chí cả tiêu thụ nữa. Nói thẳng ra là: tác giả phải bỏ một phần hoặc toàn bộ (mà thường là toàn bộ) số tiền chi phí cho việc in tập thơ của mình. Nhà xuất bản thì đọc bản thảo cũng chỉ còn là một hình thức cho đủ. Tác giả có thể chăm chút toàn bộ các khâu trình bày sách, nhờ họa sĩ vẽ bìa, chọn phụ bản, tìm nơi in... Tùy theo số tiền cá nhân bỏ ra (tất nhiên!), mức độ xấu đẹp của các tập thơ này rất khác nhau. Và, tùy theo trách nhiệm của từng cơ quan xuất bản, chất lượng các tập thơ này cũng rất khác nhau.

Một số người cho rằng phương thức "liên doanh liên kết" này đã mở ra một lối thoát cho việc xuất bản thơ. Các nhà xuất bản sẽ mạnh dạn (không sợ lỗ) đối với việc in thơ. Mặt khác, do tác giả chủ động bỏ tiền, tính chất "cửa quyền" của người biên tập nhà xuất bản sẽ bị hạn chế đi: tác giả có thể chủ động chọn in những bài thơ tâm đắc nhất, tìm tòi độc đáo nhất của mình. Và, sau nữa, nhờ tinh thần làm chủ ấy, nhìn chung hình thức các tập thơ đã đẹp hơn trước đây rất nhiều.

Những lý do nêu trên đều có phần nào đó là đúng. Chúng chỉ không đúng đối với... những người không có tiền để in thơ mình ra! Mà, tiếc thay, số người này ở giới làm thơ nước ta lại quá nhiều, và thuộc về số đó có phần lớn những tác giả đáng chú ý của nền thơ ca hiện đại!

Các bạn đã in thơ theo phương thức "liên doanh liên kết" hãy tha lỗi cho tôi. Và xin hãy nghe tôi trình bày cho hết nhẽ. Trong hoàn cảnh hiện nay, mà tự nguyện hy sinh những tiện nghi vật chất, thậm chí có người còn phải chấp nhận sự túng thiếu trong gia đình, chỉ cốt sao những rung động từ trái tim mình có được một con đường đến với công chúng, mong tìm gặp một sự đồng điệu, cảm thông - bản thân việc đó đã rất giàu chất thơ. Và, thực sự, trong các tập thơ được in theo phương thức nói trên, có những tập rất đáng chú ý (của cả những người đã là nhà thơ tên tuổi cũng như của một số cây bút mới). Ở đây, rất tiếc là chúng ta đang thiếu cặp mắt xanh của những nhà nghiên cứu phê bình, để kịp thời phát hiện, giới thiệu với công chúng những tập thơ ấy. Phải công nhận rằng: đúng là có một số tập thơ rất đáng được ra mắt bạn đọc, nhưng nếu cứ theo phương thức cũ (xếp hàng lần lượt) thì không biết tới bao giờ mới đến tay bạn đọc, và nếu như vậy thì sẽ là một sự thiệt thòi cho thơ ca nói chung.

Tôi không hoàn toàn phản đối phương thức in thơ "liên doanh liên kết". Nhưng trên thực tế, một số cơ quan xuất bản đã buông lơi trách nhiệm của mình, cho ra mắt những tập thơ yếu kém về chất lượng. Chỉ cần mỗi nhà xuất bản, do dễ dãi, nhân nhượng, góp vào thị trường chung đôi ba tập thơ yếu kém, thì, cuối cùng, chúng ta lại rơi vào một tình trạng lạm phát khiến công chúng nản lòng và đâm ra hoang mang chẳng còn biết thơ ca đích thực là thế nào nữa cả. Cần phải có chuẩn mực nhất định, và chỉ khi nào một tập thơ vượt qua chuẩn mực ấy - thì sau đó mới nên bàn tới chuyện liên doanh liên kết.

Trở lại những tác giả không có điều kiện "liên doanh liên kết", tình hình cũng không phải đơn giản. Nhà xuất bản sẽ rất lúng túng trong việc chọn thơ của ai để bỏ vốn ra in (và có khi phải chịu lỗ nữa). Lại xếp hàng lần lượt như trước kia chăng? Lại đương đầu với bao nhiêu chuyện phiền hà, bao nhiêu lời trách móc, kiện tụng? Lại chịu kinh doanh không có lãi, thậm chí chịu lỗ, lấy gì nuôi nhân viên? Vân vân và vân vân...

Để tháo gỡ hàng loạt vấn đề như vậy, trước hết phải khai thông khâu phát hành. Các cơ quan phát hành sách phải thay đổi quan niệm đối với thơ: Không phải là ít đâu, những người tới hiệu sách thất vọng vì chẳng thấy tập thơ nào để mua! Sau nữa, trách nhiệm và trình độ người biên tập thơ của các nhà xuất bản cần phải nâng cao hơn, phải tin ở sự thẩm định của mình và dám chịu đựng. Ngoài ra, cần làm tốt công tác thăm dò dư luận - dư luận trong giới làm thơ và dư luận công chúng. Hội đồng Thơ của Hội Nhà văn nên được kiện toàn để có thể đưa ra những ý kiến cố vấn cần thiết cho các nhà xuất bản. Đặc biệt, năm nay việc xét tặng giải thưởng của Hội đồng Thơ có lẽ sẽ phải tốn khá nhiều thời giờ và công sức thì mới bao quát được toàn bộ số tập thơ đã in. Và, theo tôi, nếu tác phẩm được tặng thưởng nằm trong số những tập thơ do tác giả liên kết với một nhà xuất bản nào đó, thì nhà xuất bản Tác phẩm mới của Hội Nhà văn nên cho in lại để phát hành rộng rãi.

Trong những cuộc hội thảo trước đây về thơ, đã có nhiều sáng kiến đi tìm các hình thức xuất bản: in thơ thành tờ rời một bài, in những tập thật mỏng 10 bài, v.v... Nhưng chưa thấy nói nào thực hiện thử xem sao. Biết đâu, những hình thức gọn nhẹ, đơn sơ ấy lại hợp với thơ? Hoặc in thơ thành những tập mỏng chừng 15, 20 bài, như cách làm của nhà xuất bản Đội cận vệ thanh niên (Liên Xô)? Hoặc in theo hình thức những cahier de poésie như tạp chí châu Âu (Pháp)? Tất cả mọi hình thức phong phú ấy đều nên được các nhà xuất bản cân nhắc, suy nghĩ, thể nghiệm. Dù sao, xuất bản vẫn là một khâu rất quan trọng để thơ ca đến được với bạn đọc.

Còn thì, nói cho cùng, thơ ca cũng còn có nhiều con đường khác để đến với công chúng yêu thơ: trên trang báo, trên làn sóng phát thanh và truyền hình, trên diễn đàn những buổi đọc thơ trực tiếp... Thơ tồn tại, không phải chỉ trong các tập thơ, mà ở trong tâm hồn.

 

Nguồn: Văn nghệ, Hà Nội, số 30 (29-7-1989)

Mục lục