ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ
THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI
 

Mục lục 


Nguồn:  Cửa Việt, Quảng Trị, số 3 (tháng 6 - 1990)

THƠ HÔM NAY: GIEO VÀ GẶT

NGÔ MINH

          Bàn về thơ thật khó thống nhất, bởi thơ còn có cái gu nữa. Cái tạng tôi: thích buồn trầm lắng, tạng anh thì say yêu cuồng nhiệt... Thế nên mới có bài thơ người này thì khen, kẻ khác lại lánh xa dè bỉu. Đó là chưa nói đến các khía cạnh thuộc về "chức năng văn học" (như người ta thường dạy trong sách) của thơ. Nói đến còn đa sự nữa.

Nhưng nói về thơ hôm nay, hay đúng hơn từ khi có chuyện "đổi mới" đến nay, thì quả là có nhiều cái để ngẫm nghĩ, trao đổi. Cái ai cũng dễ nhận thấy là Thơ đang in dấu chân đậm nét trên hành trình tìm lại chính mình. Hình như thơ đang dằn vặt để cắt bỏ dần cục bướu của chủ nghĩa duy lý thô thiển, sơ đồ hóa mọi cảm xúc và hình tượng thi ca, từ bỏ thói lãng mạn cự đoan một chiều... để tiến về với con người thật với tất cả rung cảm máu thịt của nó. Mừng lắm chứ: Cách đây mươi năm, các nhà thơ ao ước "báo thêm chút thơ tình". Bây giờ thì trên các mặt báo hàng ngày, kể cả những báo đạo mạo nhất, dẫu chưa nhiều, cũng đã có đôi bài tình, đôi bài buồn đau, thế sự - Nghĩa là có đủ ngũ vị cuộc đời của cái cá tính sáng tạo khó chịu xưa nay! Thế là những hạt giống của Tự do sáng tạo đã được gieo - Và đây đó đã có những quả bói.

Việc các tác giả trong Nam ngoài Bắc được phép bỏ vốn ra tự in thơ mình một cách sôi động, đã giải tỏa được một khối lượng lớn thơ bị "ứ đọng" trong sổ tay tác giả. Nó đập nát cái thông lệ Cây đa cây đề, chiếu trên chiếu dưới, móc ngoặc bao cấp về in thơ từng làm nhức nhối các nhà thơ mới nhập làng trong 30 năm lại đây. Hẳn nhiên là đến nay nhiều nhà xuất bản "được gọi là sang trọng" của đất nước mỗi năm vẫn có năm ba đầu sách thơ bao cấp như trước cho các tác giả chính sách cần phải chiếu cố. Dù có như vậy, cũng chẳng ai để ý đến nữa. Vì bỏ ra vài ba trăm nghìn đồng cho một tập thơ không phải chuyện quá khó - Cái quan trọng là các tác giả ít bị biên tập. Một anh bạn ở Hà Nội, làm thơ hay, khi tôi hỏi tại sao không đưa bản thảo cho nhà xuất bản trung ương in, anh bảo rằng: "Anh không muốn bản thảo thơ của mình bị can thiệp quá sâu". Nhiều người lên tiếng lo lắng, phàn nàn về việc "lạm phát" thơ. Họ báo động về một nguy cơ làm giảm giá thơ. Riêng tôi nghĩ, ngược lại đây là điều rất đáng được khích lệ, đáng chúc mừng! Cách in thơ hiện nay có mấy cái lợi: Thứ nhất, là thơ không còn là vườn hoang cho dăm ba chàng được lăng-xê từ một phong trào, một cuộc thi nào đó múa gậy như trước nữa, mà trở thành rừng cây nhiệt đới xanh tươi muôn loài, muôn tầng. Thứ đến, rõ ràng có rừng là có cây. Nhiều tác giả thơ được cả nước biết đến từ những tập thơ mỏng mảnh quê mùa về hình thức, in ở địa phương, có khi tác giả phải tự bỏ tiền ra. Số tác giả này năm nào cũng xuất hiện với những tập thơ đáng kính trọng. Thế là xuất hiện một tâm lý bình đẳng. Làm gì có thơ địa phương, thơ trung ương, văn nghệ địa phương, văn nghệ trung ương như quan niệm buồn cười của những người quản lý khi cấp giấy phép cho các tạp chí địa phương. Phong trào in thơ với hình thức ngày càng hiện đại, phong cách đa dạng như vừa qua, làm cho không ít tác giả "trúng quả chính sách" được bao in thơ ở các nhà xuất bản sang trọng ở trung ương cũng phải giật mình trước chất lượng sút kém của thơ mình so với "đàn em" tỉnh lẻ!

Ấy là thơ đang đổi mới đấy. Sao lại không. Thơ đang tìm những lối thơ phù hợp để đến với người yêu thơ. Nhà thơ nhìn lại cuộc sống hôm qua, hôm nay, nhìn lại chính mình với ý thức công dân và thái độ nhân văn cao cả. Đừng giật mình lo lắng, đừng vội vàng nổi cơn thịnh nộ vô lý trước sự kiểm nhận khắt khe của quy luật sáng tạo. Cái mới không bao giờ tạo ra trước cái tiêu thức để đo nó, còn cái cũ thì hay đo cái mới, hay phán xét cái mới bằng kích thước của mình. Nếu ta thấy giọng cha chú dọa nạt quyển sách này, răn dạy tập thơ, bài thơ kia, họ đều trái với quy luật của sáng tạo nghệ thuật. Giá như thời 1930 - 1945 người ta cực đoan, bắt bỏ tù những người theo trường phái Thơ Mới, thì nền thơ Việt Nam hiện đại là sao có Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên... Cả khi xét trên tập quán đạo đức truyền thống, thì không chỉ thời nay, thời "Tình giả" của Phan Khôi, mà cả thời Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương cũng đã phạm húy rồi đấy!

Tất nhiên, cái gieo còn quá mới, quá ít, lại chưa quen, chưa nhiều về thời vụ canh tác, nên cái gặt còn lổ đổ. Có hạt chắc, hạt lép, thậm chí có cả cỏ dại đã được gặt về. Nên chăng với thơ ta hôm nay, chỉ nên bộc bạch với nhau đôi điều bên chén rượu ở một góc trăng nào đó. Ví như về sự chân thật - Thật và không thật, thơ và không thơ. Có lần uống rượu ở hè phố Hàm Long, Hà Nội, một bạn thơ thốt nhiên hỏi tôi "thơ có hư cấu không". Tôi đã không trả lời câu hỏi. Bịa như thật - ấy là văn chương. Thế thơ có quyền bịa như thật không? Bịa ra một nỗi đau, sự mất mát, tưởng tượng ra một tình yêu rồi làm những bài thơ có được không? Ai cố làm đôi bài thơ đích thực tâm huyết cũng dễ dàng trả lời: Không thể được! Xúc cảm thơ là không thể hư cấu. Thơ là tâm trạng thực của nhà thơ trước nhân tình thế thái. Gương mặt của nhà thơ do số phận nhà thơ quy định. Hay nói cách khác nhà thơ là nhân vật chính của tác phẩm thơ. Nguyễn Hành, thế kỷ XIX, từng viết: "Tiếng kêu của chim thế nào, âu cũng có nguyên do của nó. Khi Triều đình hữu đạo, tôi hiền hòa hợp, quây quần, có lẽ vì vậy mà chim Phượng, chim Hồng hót nghe vui vẻ chăng? Lúc đời suy tàn, muôn dân ly tán, sầu oán có lẽ vì vậy mà chim Hồng, chim Nhạn kêu nghe buồn bã chăng? Bởi nhịp cảm xúc không giống nhau mà thanh âm của tiếng kêu cũng khác nhau... Tiếng kêu của ta đến thế chăng? Tiếng kêu não nùng của con chim Cuốc...".

Tiếng chim ấy là tiếng thơ vậy. Thế mà thơ ta hôm nay còn khối tiếng kêu không thật bụng đấy - tức là than vay khóc mướn cho ngành này, ngành khác, than cho ngày kỷ niệm, kêu vì một món quà. Đó là cái cũ còn nhơn nhơn tự đắc, chưa kịp lui quân. Có cái tưởng như mới lại rởm đó là thói bắt chước giọng điệu cho ra vẻ. Viết vô tội vạ về "em" về "tình yêu" trong lúc chẳng yêu ai cả. Có anh bạn ở trường đại học viết văn Nguyễn Du tâm sự với tôi "mình đọc cả một tập thơ, có nhiều bài thơ khóc người này người nọ của một tác giả, đọc xong thậm chí đôi chút ngậm ngùi cũng không có, làm sao mà khóc được. Có phải thế là rởm không?" Đơn giản là tất cả xảo thuật ngôn từ không được sinh ra từ sự ấm nóng của trái tim, thì dễ bị lộ vì câu thơ vô cảm, cứ chuồi đi theo vần điệu. Khuyết điểm "bịa ra thơ" này tôi gặp từ các nhà thơ đã có tuổi cho đến người mới viết. Cũng phải mở chút ngoặc đơn cho chặt chẽ là cái thật ở đây là cái thật của tâm hồn, tâm trạng. Cũng có sự thật của cõi mộng. Đó là sự ám ảnh, ám thị, sự tương tư khao khát đến mê si kiểu như Hàn Mạc Tử đến mức thành thơ, thành đạo thơ - Đó cũng là sự thật tuyệt vời của một tấm tình yêu. Tình sinh ý, ý sinh chữ, bởi cái này mà có cái kia, mà gọi cái kia là vậy. Còn như sự "hư cấu" ra tình cảm thơ thì thật làm khổ nhau quá!

Ở khía cạnh khác, cũng cần bàn đôi câu về cái thật mà không thơ, mà nhiều người làm thơ do bức bách về tâm lý mà hiểu nhầm. Uất hận về sự mị dân, dối trá, cưỡng hiếp giết hại dân lành, đục khoét của công của các cấp "quan cách mạng" thì người chính trực ai mà chẳng uất. Nhà thơ thì càng dễ nổi máu tam bành hơn. Nhưng từ chỗ căm thù đến thơ lại là một cấp độ khác. Thực tế mấy năm qua, chúng ta được đọc quá ít bài thơ thật sự thơ về đề tài này. Thơ viết liên tục, có báo tập trung cả trang, cả chuỗi, nhưng phần đa là những câu rủa, câu chửi lộng ngôn cho hả giận. Cái gọi là thơ chống tiêu cực khó có đất sống nếu nó không đạt dến độ thâm trầm cay độc như Tú Xương ngày trước. Cũng rất may loại thơ này xuất hiện rầm rộ một thời gian ngắn rồi cũng tự lùi dần. Còn chăng là còn những bài trữ tình chính luận nhức nhối, nóng bỏng kiểu như Nhìn từ xa... Tổ quốc của Nguyễn Duy, Đối thoại với Chí Phèo của Trần Mạnh Hảo, Hà Nội Têrextroika của Nguyễn Trọng Tạo v.v...

Một biểu hiện trong thơ thời gian gần đây cần lưu ý là sự chùng lại về nhịp điệu và sự lặp lại mô típ cũ. Có thể là do sự mở rộng phạm vi đề tài, sự thiếu thành công của những bước đầu thể nghiệm về đổi mới hình thức biểu hiện trong thơ của vài ba tác giả. Cũng có thể do sự sống lại của thơ ca tiền chiến mà một thời gian dài ở miền Bắc, nhiều thế hệ học sinh không được đọc không được hiểu đúng, đã làm cho sự định hướng của thơ ta về phía trước bị yếu đi chăng? Dù sao đó cũng là điều có thực. Thế hệ chúng ta biết uống nước nhớ nguồn nhưng phải làm ra cái của mình, không thể làm cái của thế hệ trước đã làm.

Nói thế chứ làm thơ cho đời thuộc đôi câu đã khó. Thuộc đôi bài còn khó hơn. Chứ gọi là hay để đời khen thì thật sung sướng. Trong ngày Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ IV tại Hội trường Ba Đình tháng 10-1989, chúng tôi nhận được câu hỏi phỏng vấn của một tạp chí văn nghệ do một nhà thơ đã cao niên chuyển đến: "Làm thế nào để có thơ hay". Câu hỏi thật chết người. Thơ hay cơ mà, phải đùa đâu?...

Ôi, thơ hay không thể cầu xin. Ai dám nói là mình sẽ làm những bài thơ hay! Thôi thì hãy nói với nhau một câu: hãy viết cho chân thật, "chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". Cái thật là khởi đầu của cái hay vậy.

 

 

Nguồn: Cửa Việt, Quảng Trị, số 3 (tháng 6 - 1990)

Mục lục