VÙNG CAO

Tùy bút

Nguyễn Thị Hậu

 

 

Sapa không còn lặng kẽ

Vào một ngày Đông... chuyến tàu Hà Nội – Lào Cai rời ga Hàng Cỏ chuyển bánh đi về phía Bắc đưa tôi lần đầu đến với Sapa. Trong tôi Sapa bao giờ cũng là một thị trấn nhỏ bé và lặng lẽ như một truyện ngắn tôi từng đọc. Chuyến tàu đêm cuối tuần đông khách du lịch, đi theo nhóm, đi cả đoàn, đi từng đôi, không hiếm người đi một mình… Sáng sớm tàu đến Lào Cai.

Trong chiến tranh biên giới năm 1979 Lào Cai là thành phố và là tỉnh thiệt hại nặng nề nhất. Nay thành phố đã hiện đại lên với nhiều nhà cao tầng, đại lộ thẳng tắp rộng thênh thang hai bên là những tòa nhà công sở mới của Tỉnh, tôi tự hỏi: hàng cây lơ thơ bên những ngôi nhà mái ngói cũ, cái thư viện tỉnh vắng vẻ có cô thủ thư mái tóc dài chấm đất, và mối tình thầm lặng của cô với anh công chức Hà Nội sơ tán về… không biết có thật hay chỉ có trong cuốn tiểu thuyết nào đó mà lúc này tôi ko sao nhớ ra được.

Đường lên Sapa  uốn lượn, qua dốc ba tầng sương sớm không tan mà càng dày, hàng cây samu ven đường ngọn lá hình tháp đọng sương gợi hình ảnh Noel sắp đến.  Sài Gòn đang những ngày nắng nực, Hà Nội đẹp trời giữa Đông, cái lạnh ở Hà Nội bạn nhắc mới nhớ ra cái từ “rét ngọt”.  Còn Sapa, Sapa mù sương không phân biết sáng trưa chiều, không phân biệt đồi cao và thung lũng… Sương đọng như mưa phùn,  tưởng không rét nhưng rồi cái rét cứ thấm dần vào da thịt, càng trưa càng lạnh, ngồi yên cũng lạnh mà đi lại cũng không thấy ấm hơn, cái lạnh vào người rồi ở yên trong đó làm cho toàn thân cứ run lên.

Năm 1979 dù năm sâu trong thung lũng nhưng Sapa cũng không thoát khỏi sự tàn phá nặng nề. Vào thập niên 1990, Sa Pa được xây dựng, tái thiết trở lại.Thị trấn nhiều xe máy hơn, nhiều trạm xe khách chất lượng cao từ Hà Nội và nhiều tỉnh khác đến Sapa. Chợ Sapa vẫn đông khách tây khách ta, quanh nhà thờ quanh “phố cũ” vẫn những người phụ nữ già trẻ lớn bé, lưng địu con nhỏ tay cầm những chiếc vòng bạc, túi thổ cẩm… chào mời khách mua, tiếng Kinh lơ lớ, tiếng Anh  chỉ đủ vài từ mặc cả. Trước cửa các khách sạn những cô gái Mông chào hỏi bằng tiếng Anh khá trôi chảy với khách du lịch ba lô. Váy áo thô cẩm, quấn xà cạp, em nhỏ địu trong tấm chăn hoa sặc sỡ, những người phụ nữ Mông  từ những bản gần bản xa, lặn lội đến Sapa “làm du lịch”. Phải chăng vì phụ nữ, trẻ nhỏ làm người ta dễ động lòng “từ bi” hơn…?  Thật ra phụ nữ ở đâu cũng phải bươn chải và có thể làm tất cả vì gia đình.

Đang ngồi trong quán trước mặt là hồ nước mù sương, ly cà phê nóng ủ giữa  hai tay mà vẫn lạnh run, một bà già người Mông trên tay lủng lẳng vòng bạc, túi thổ cẩm đi qua. Bà dúi vào tay tôi mấy chiếc túi thổ cẩm: “túi bà già khâu tay đây, mua đi, mua cho bà già. Bán cho Tây là 150 nghìn nhưng cháu mua thì 100 nghìn thôi”. Chiếc túi hoa văn kỷ hà xanh nhạt, vải mỏng khá mịn, loại vải dệt máy công nghiệp, đường khâu tay cố ý để lộ sự vụng về. Cầm chiếc Samsung Galaxy của tôi đặt lên túi, bà già cười: vừa với cái này này, mua đi. Vừa nói xong bỗng bà nhớn nhác và lao nhanh ra đường. Ngoài đường mấy anh trật tự viên đang đuổi theo người bán hàng rong tịch thu hàng, túi thổ cẩm, vòng bạc, vòng cườm rơi lung tung…

Mấy người bạn hôm  trước hớn hở khoe  đã kịp trả giá và mua mấy cái vòng bạc và vài túi thổ cẩm về làm quà. Hôm sau đi chợ Sapa về, giọng tức tối: ngoài chợ giá mấy cái này chỉ bằng một nửa, mấy ông trật tự bắt người hàng rong là đúng quá!

Trong mắt tôi lại hiện ra gương mặt nhăn nheo của bà già người Mông, gương mặt đỏ lên vì lạnh của các cô gái, những em bé ngủ gật ngật ngưỡng trên lưng mẹ, những đôi bàn tay xanh chàm không bao giờ phai nhạt… Tôi ân hận, giá mà hôm qua mình mua giúp họ vài thứ…

Sắc màu cao nguyên đá

 

Những ngày đầu xuân tôi có dịp lên Hà Giang. Trên con đường chạy giữa bạt ngàn màu xám núi đá thi thoảng lại nhìn thấy một vài phụ nữ người Mông đi bộ, lưng gùi nặng, trong bộ trang phục nhiều màu sắc hài hòa làm cho khung cảnh nơi đây bớt phần hoang vắng.

Có thể nhận thấy trang phục đàn ông người Mông hầu như không thay đổi, từ trẻ em đến cụ già vẫn một kiểu quần áo màu đen gài hàng nút vải trong khi đó khăn váy áo của phụ nữ thì nhiều màu sắc. Vào ngày chợ phiên ở Lũng Cú, Sà Phìn hay Đồng Văn các cô gái Mông đã chọn lựa khăn áo váy thắt lưng giày…và “phối màu” với nhau rất đẹp. Họ có thể thỏai mái lựa chọn mua hàng may sẵn với chất liệu vải mềm mỏng hay bóng bẩy, in màu và nhiều họa tiết hoa văn, dập đường xếp ly… được bán la liệt ở chợ, ở các cửa hàng ven đường hay trong thị trấn. Đa số phụ nữ bây giờ có váy áo bộ mặc bộ thay, chất liệu vải mỏng nhẹ hơn vải lanh dệt nhuộm thủ công nên việc vệ sinh giặt giũ cũng dễ dàng hơn. Chị em không còn mất quá nhiều công sức cho việc dệt may váy áo, thời gian để dành cho công việc khác. Sự thay đổi này mang lại nhiều thuận lợi cho người phụ nữ.

Tuy nhiên, hàng hóa sản xuất từ Trung quốc màu sắc đa dạng, nhưng trang phục phụ nữ Mông bây giờ không còn vẻ đẹp riêng của màu sắc, hoa văn từng bộ váy áo mà trước đây họ đã kỳ công dệt may cho chính mình. Chắc không lâu nữa không ai còn thấy được sự độc đáo của trang trí hoa văn trên váy áo người Mông khác biệt với dân tộc khác như thế nào vì cách thức dệt nhuộm may thêu truyền thống của người Mông đang bị mai một… Trong những gia đình người Mông ở Lũng Cú, Đồng Văn mà tôi có dịp ghé qua hầu như ít còn khung cửi gỗ dệt vải lanh, cũng hiếm thấy cảnh người mẹ người bà ngồi đưa thoi dệt vải, các cô gái chuốt chỉ thêu váy áo...

Trang phục dân tộc - nhất là trang phục phụ nữ - được coi là loại hình di sản văn hóa phi vật thể, vì thể hiện nét độc đáo riêng của thẩm mỹ, phù hợp sinh hoạt từng tộc người qua kiểu dáng và trang trí màu sắc hoa văn. Nghề dệt may, thêu và cách thức làm ra các bộ trang phục truyền thống của các dân tộc thường do người bà, người mẹ truyền dạy cho con gái từ khi còn nhỏ… cứ thế mà được lưu giữ lâu dài qua nhiều thế hệ. Khi hòan cảnh sống thay đổi làm cho chủ nhân văn hóa ấy không còn nhu cầu hay không có điều kiện để lưu giữ và truyền lại cho thế hệ sau thì cũng là lúc cần đến vai trò của chính quyền. Bằng những phương thức “vật thể hóa” di sản văn hóa phi vật thể như chụp hình quay phim quá trình làm ra sản phẩm, sưu tầm hiện vật kỹ thuật về nghề thủ công dệt nhuộm thêu, sưu tầm các kiểu trang phục và cách thức sử dụng trang phục hàng ngày và lễ hội, và phục dựng trong trưng bày bảo tàng - đặc biệt là xây dựng bảo tàng ngay tại cộng đồng… nhà nước “can thiệp” để giúp cộng đồng bảo tồn văn hóa truyền thống của chính họ.

Hiện nay nhiều quốc gia đã duy trì và phát triển những làng nghề “du lịch bền vững”: trình diễn nghề và sản xuất những sản phẩm thủ công (như dệt may thêu trang phục dân tộc), tuy nhiên, sản phẩm phải giữ được sự độc đáo riêng của từng nơi, có vậy mới hấp dẫn và thu hút được du khách trong, ngoài nước. Khi người dân sống được bằng nghề của mình, tức là di sản văn hóa “nuôi” được cộng đồng thì cộng đồng mới duy trì và gìn giữ văn hóa, trước là cho chính mình và sau là cho đất nước.

Cuộc sống nơi vùng cao đang thay đổi nhanh chóng, sự “tồn tại hay không tồn tại” của di sản văn hóa phi vật thể nơi đây là câu hỏi đặt ra mà câu trả lời không chỉ đến từ chủ nhân của những di sản văn hóa ấy.

 

Biệt phủ và con đường tính từng giờ máy xúc

 

Những năm gần đây tôi có dịp đi đến nhiều tỉnh miền núi phía bắc: Hà Giang, Bắc Cạn, Cao Bằng, Lạng Sơn, Yên Bái, Lào Cai, Tuyên Quang… Tại đây, cũng như nhiều tỉnh thành khác, thành phố “thủ phủ” được xây dựng “hiện đại hóa” nhanh đến mức có thể không nhận ra diện mạo “vùng cao” nếu không có những dãy núi bao quanh.

Do quỹ đất dồi dào nên trong thành phố nào cũng có công viên trung tâm hay quảng trường mênh mông, tượng đài nghìn tỷ… Trụ sở cơ quan công quyền rất hoành tráng với kiểu dáng như Tây, cơ sở hạ tầng gồm những con đường rộng 8 làn xe có dải phân cách trồng hoa, cây xanh, vỉa hè rộng rãi có nơi được lát đá granit bóng loáng, nhà mặt tiền xây dựng kiểu cách, cửa hàng cửa hiệu phong phú đa dạng không thua gì Hà Nội. Những khu “dân cư mới” mọc lên, nhà liên kế, biệt thự nhà vườn san sát mà phần lớn là của quan chức và công chức.

Đây thật là điều đáng mừng cho “vùng sâu vùng xa” nếu như không có một quang cảnh khác hẳn, thậm chí đối lập khi chỉ cần ra khỏi thành phố chừng vài mươi cây số là có thể nhìn thấy. Đó là những xã, bản mà từ hạ tầng “điện đường trường trạm” đến đời sống dân cư nói chung như vẫn còn ở thập niên 60,70 của thế kỷ trước.

Một lần chúng tôi đến một xã thuộc một tỉnh vùng trung du phía Bắc.  Chính xác hơn nơi tôi đến là một xóm nhỏ có chừng hơn 20 nóc nhà và một điểm trường cấp Một. Xóm ở tách biệt với phần còn lại của xã bởi một cái hồ lớn, nước sâu hút chưa kể mùa lũ về thì mênh mông. Xóm nằm sát chân núi, từ bến đò chỉ có đường mòn ngoằn nghèo đường dốc xuyên qua xóm nhưng không nối liền với nơi khác trong xã. Chỉ có cách đi thuyền máy qua hồ mất khoảng hơn một tiếng nếu trời yên sóng lặng, còn vào mùa mưa bão thì không ai dám mạo hiểm.

Các bạn tôi đã cùng nhau đóng góp tiền của để thuê máy xúc làm đường cùng với công sức của dân trong xóm. Sau gần ba năm có lúc tưởng chừng phải dừng lại vì chạy tiền không kịp, vì một vài thủ tục nhiêu khê…  đến nay con đường đã hoàn thành: dài hơn 20km rộng khoảng 5m có nhiều đoạn phải làm cống, vắt vẻo sát chân núi trèo qua những đỉnh núi rồi nối với đoạn đường có sẵn bắt đầu từ trung tâm xã. Không chỉ vậy ngày mừng đường mới khách về chơi còn tặng cho điểm trường ở nơi hẻo lánh này một số dụng cụ sinh hoạt văn hóa, thể thao theo đề nghị của cô hiệu trưởng.

Xóm đã có điện nay có thêm đường, không thể nói hết niềm vui của người dân trong xóm và các cô giáo ở đây. Từ nay sinh hoạt của người dân, việc đi dạy đi học thuận lợi hơn rất nhiều, đặc biệt là vào mùa thu hoạch trái cây thì xe ô tô có thể vào tận xóm mua hàng, giá cả phù hợp hơn vì không mất nhiều thời gian và công sức thuê thuyền chở ra tận chợ. Tôi hỏi anh lái thuyền máy của xã:

-       Chắc ngày nào anh cũng phải ra vào xóm này nhỉ?

-        Không cô ạ, năm chỉ đôi ba lần, chủ yếu chở các sếp và khách khứa đi chơi hồ thôi.

-       Sao vậy, thế cán bộ không thường vào xóm à?

-       Họ chả vào làm gì…

Ừ, có lẽ vậy nên mong mỏi bao năm của dân về một con đường chẳng ai “thấu cảm”. Khi về chúng tôi đi qua Trụ sở Ủy ban xã, một tòa nhà 3 tầng khá mới, khang trang, phía trước là con đường đổ bê tông rộng rãi nhưng ít người qua lại. Ra khỏi xã đã là đường cao tốc, cầu vượt, và thành phố của tỉnh hiện đại như nhiều nơi khác…

Hiện nay có rất nhiều nhóm thiện nguyện đi đến những xã, bản khó khăn và giúp đỡ người dân bằng mọi cách tùy thuộc vào khó khăn từng nơi và nguồn đóng góp. Nhưng hầu như ở đâu cũng bắt đầu từ việc chăm lo cho các điểm trường và học sinh như xây trường học và nhà nội trú, tặng học bổng hay chi phí cho những bữa ăn cho học sinh, hay như nhóm bạn tôi làm một con đường… Lòng nhiều và của cũng không hề ít nhưng không ai tính đếm vì mọi người đều coi là việc cần làm “vì các con”.

Tôi tự hỏi, các quan chức – chủ nhân của “biệt phủ” lộng lẫy hoành tráng giữa rừng núi có bao giờ biết rằng đã những có mái trường, con đường, ngôi nhà ở ngay địa phương của các vị đang quản lý được xây nên từ những giọt mồ hôi, từ đồng tiền đóng góp có khi chỉ đủ cho “một giờ máy xúc” của những người mà thu nhập cả đời của họ cũng không thể xây được một góc nhỏ ngôi biệt phủ, nhưng họ vẫn dốc sức sẻ chia vì tình thương yêu và cả vì trách nhiệm với đồng bào của mình.

“Chỉ có súc vật mới quay lưng lại nỗi thống khổ của đồng loại mà chăm lo riêng cho bộ lông của mình”. Tôi ước gì câu nói này được khắc trên tất cả cánh cửa ngôi biệt phủ của các quan chức nói láo không biết ngượng miệng khi “giải trình” về nguồn gốc đồng tiền dơ bẩn và đen tối xây dựng nên những biệt phủ.

 Tác giả gửi cho viet-studies ngày 18-10-18