ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA - LỊCH SỬ

VÀ TÍNH CÁCH NGƯỜI SÀI GÒN

 

Nguyễn Thị Hậu

 

1. Đặc điểm của đô thị Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh

 

Nếu coi đô thị là một cơ thể sống, được sinh ra, nuôi dưỡng và luôn phát triển thì những đặc trưng văn hóa hay “bản sắc văn hóa” của đô thị có thể coi là những ADN của cơ thể đó. ADN được hiểu một cách đơn giản là nơi chứa mọi thông tin chỉ dẫn cần thiết để tạo nên các đặc tính sự sống của mỗi sinh vật. Đặc trưng, bản sắc của mỗi đô thị giống như ADN, cũng nhờ quá trình “trao đổi chất” là những tác động của con người trong lịch sử phát triển đô thị mà bản sắc ấy hình thành, có thể biến đổi và di truyền.

 

Bản sắc văn hóa của đô thị hình thành từ cấu trúc, tính chất và chức năng của nó, và trên hết, cộng đồng dân cư đã duy trì và (làm/góp phần) biến đổi nó. Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh chẳng hạn, cái gì có thể coi là ADN của đô thị này? Có lẽ cần bắt đầu từ việc nhận dạng những đặc trưng của đô thị, từ cảnh quan tự nhiên và nhân văn đến văn hóa của cộng đồng. Từ bối cảnh địa lý đến các các yếu tố văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính trị có thể nhận biết đô thị Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh qua những đặc trưng cơ bản sau.

 

Sài Gòn là đô thị sông nước

Sông Sài Gòn là giao thông đường thủy quan trọng nhất, cảng Sài Gòn là cửa ngõ thông thương với nước ngoài. Hệ thống kênh rạch dày đặc là những con đường huyết mạch để vận chuyển lúa gạo và các loại nông sản, hàng hóa khác từ đồng bằng sông Cửu Long lên cảng Sài Gòn để xuất khẩu. Thương cảng Sài Gòn, từ góc độ lịch sử có thể coi là đặc điểm chủ yếu của đô thị Sài Gòn.

 

Hệ thống sông rạch làm nên cảnh quan “trên bến dưới thuyền” của Sài Gòn: những con sông, kênh rạch với những bến sông nổi tiếng sinh hoạt buôn bán, cảnh quan văn hóa đặc trưng: sông - bến chợ - phố chợ ven sông - làng ven sông - giao thông đường thủy - ghe thuyền - cầu qua sông…

 

Hiện nay, đại lộ Đông Tây được xây dựng đã đáp ứng nhu cầu giao thông và mang lại hiện đại cho thành phố, nhưng trả giá cho việc này là dọc hai bên sông - cũng là dọc theo đại lộ, những dãy nhà phố buôn bán biến mất, những tòa cao ốc đã và đang mọc lên. Vẻ đẹp cổ xưa “trên bến dưới thuyền” sầm uất mà hồi giữa thế kỷ XX vẫn còn được ghi nhận đã không còn nữa.

 

Sài Gòn là một trung tâm kinh tế

Sài Gòn có một hệ thống sông lớn và có cửa biển Cần Giờ nên đây là một cảng thị từ rất sớm, cũng là nơi có sự giao lưu mạnh mẽ với các quốc gia khác qua đường biển, nhất là giao thương kinh tế.

 

Tuy có thời gian dài gần một thế kỷ là trung tâm chính trị nhưng vai trò quan trọng về kinh tế của Sài Gòn đối với cả miền Nam Việt Nam và khu vực là không thể thay thế. Chợ Bến Thành, Chợ Lớn, cảng Sài Gòn, hệ thống cảng - kho Khánh Hội, Bình Đông… có thể coi là những địa danh tiêu biểu cho tính chất đầu mối giao thương từ khi khởi lập cho đến nay của đô thị Sài Gòn. Tính chất của một nền kinh tế “mở” - xuất nhập khẩu hiện diện từ rất sớm ở Sài Gòn và hiện nay vẫn được duy trì và phát triển trong nền kinh tế TP. Hồ Chí Minh.

 

Sài Gòn là đô thị của sự đa dạng văn hóa

Từ thế kỷ XVII, nhiều cư dân từ nơi khác đến khai phá vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sự hình thành đô thị Sài Gòn là quá trình tụ cư và hội nhập văn hóa nhanh chóng của người Việt, người Hoa với những tộc người bản địa. So với Hà Nội hay Huế thì di tích lịch sử ở Sài Gòn không nhiều, niên đại muộn, đặc trưng kiến trúc - trang trí thể hiện sự giao lưu văn hóa đậm nét. Từ những con người của Sài Gòn và sống-ở-Sài Gòn, Sài Gòn đã dung nạp, tiếp nhận tất cả các yếu tố văn hóa khác nhau: phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, tiếng nói, ẩm thực, trang phục… Và quan trọng là Sài Gòn không làm thay đổi những nét văn hóa riêng của từng cộng đồng người, vẫn nuôi dưỡng tất cả để tạo nên sự phong phú đa dạng của văn hóa Sài Gòn.

 

Quá trình lịch sử và hoàn cảnh xã hội đã tạo nên tính cách “người Sài Gòn” có thể là đại diện cho “người Nam bộ”: Người Sài Gòn có tính thực tế cao nhưng không bị chuyển thành sự tư lợi mà ngược lại là cơ sở cho tính cộng đồng cao, việc xã hội, “việc nghĩa” được coi là chuyện bình thường. Vì vậy dễ dàng chia sẻ, đùm bọc người tứ xứ nhập cư.

 

Sài Gòn được quy hoạch và xây dựng theo kiểu đô thị phương Tây

Lấy sông Sài Gòn làm chuẩn các đường phố ngang dọc chia đô thị Sài Gòn (vốn trải dài ven sông, kênh rạch) thành những ô vuông, trong đó là các công sở, biệt thự, trường học, bệnh viện và các công trình công cộng khác. Những công trình kiến trúc dành cho công sở cho đến nay vẫn còn giữ được công năng, cảnh quan khu trung tâm thành phố là những con đường với hàng cây cao vút, những biệt thự mang vẻ đẹp của kiến trúc cổ điển đã trở nên quen thuộc, là một phần không thể thiếu của thành phố, là “dấu ấn Sài Gòn” đối với người đi xa và người đến Sài Gòn. Đến Sài Gòn ai cũng phải đến Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện, Nhà hát lớn, Ủy ban nhân dân, khu Eden, thương xá Tax, Chợ Bến Thành… và khu trung tâm Nguyễn Huệ - Lê Lợi - Hàm Nghi. Đó là nơi “lắng hồn” đô thị Sài Gòn.

 

Trong tiến trình lịch sử không thể phủ nhận một điều, với vị thế là thương cảng trung tâm kinh tế - văn hóa, có tầm giao lưu và ảnh hưởng đến khu vực rộng hơn, Sài Gòn luôn được coi là thành phố tiêu biểu và đại diện cho Nam bộ trên tất cả các lĩnh vực. Sài Gòn còn có đặc điểm của một thành phố từng là trung tâm chính trị. Những yếu tố trên đây hợp thành và tạo nên một đô thị cổ Bến Nghé - Gia Định, một đô thị Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh luôn thể hiện bản sắc văn hóa “văn minh, hiện đại, nghĩa tình”.

 

2. Đặc điểm lịch sử của “người Nam bộ, người Sài Gòn”

 

Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, bắt đầu gây dựng chính quyền Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đây là cái mốc quan trọng của quá trình “Nam tiến” trong lịch sử Việt Nam, cũng là quá trình hình thành văn hóa vùng đất phía nam trong xu thế mang theo và gìn giữ văn hóa cội nguồn, đồng thời tiếp nhận những yếu tố văn hóa của cư dân vùng đất mới. Đến năm 1698, Phủ Gia Định được thành lập, Sài Gòn - Gia Định hình thành từ đó. Chỉ hơn 300 năm nhưng người Sài Gòn đã kịp định hình một bản sắc riêng dễ nhận biết giữa những người của vùng miền khác. Điều này hình thành từ nguồn gốc lưu dân và hoàn cảnh lịch sử xã hội của Nam bộ/Sài Gòn.

 

Lưu dân người Việt vào Nam bộ trước hết và đông nhất là những người “tha phương cầu thực” vì không có đất đai, không có phương kế sinh sống ở quê hương. Thành phần thứ hai là những người chống đối triều đình, quan lại địa phương, bị truy bức nên phải tìm đường trốn tránh. Thứ ba là những tội đồ bị buộc phải ly hương (một hình phạt nặng của thời phong kiến). Ngoài ra còn có số ít người tương đối giàu có, muốn mở rộng và phát triển việc làm ăn trên vùng đất mới nên nhập vào hàng ngũ lưu dân tới Nam bộ… Khi Sài Gòn được hình thành như một trung tâm của vùng đất phía nam thời chúa Nguyễn, một đô thị lớn thời thuộc Pháp thì nơi đây cũng là nơi dân tứ xứ tiếp tục đổ về. Người nhập cư là thành phần hữu cơ của bất cứ đô thị nào, Sài Gòn vốn hình thành từ những lớp “người nhập cư” rồi trở thành “người Sài Gòn”, rồi lại tiếp tục thu nhận và chia sẻ cho những lớp người nhập cư mới.

 

Chỉ hơn 300 năm thôi, khó có thể nói ai là người Sài Gòn “gốc” bởi nơi đây người ta đến rồi đi, nhiều người ở lại nhưng hằng năm vẫn luôn trở về quê nhà, một thành phố cởi mở, dung dị, hòa hợp và tôn trọng những cộng đồng khác nhau. Sống trong những điều kiện lịch sử luôn biến động, người dân Nam bộ/Sài Gòn đã tạo dựng một nếp sống tinh thần ấm áp, bình đẳng, lấy tình nghĩa, nghĩa khí làm trọng. Người Sài Gòn/Nam bộ sống chung với các dân tộc: người Khmer hiền hậu, tính cộng đồng thôn xóm cao; người Hoa chịu khó, giỏi tổ chức sản xuất, buôn bán và tương trợ giúp đỡ trong làm ăn; người Chăm cần cù, khéo léo... Sự ảnh hưởng qua lại của văn hóa, lối sống càng làm cho cá tính người Sài Gòn/Nam bộ cởi mở phóng khoáng hơn trong giao lưu, nhạy bén với cái mới, thấm nhuần một tinh thần bình đẳng, nhân nghĩa, bao dung, đồng thời rạch ròi, quyết liệt vượt ra khỏi những ràng buộc, gò bó của khuôn mẫu... Người Sài Gòn không phân biệt “quê”, “tỉnh”, “đồng hương” hay không, vì vậy nói đến tính cách người Sài Gòn có thể được coi là sự khái quát tính cách người Nam bộ.

 

Khi nói đến người Việt (người Kinh) người ta thường nói đến truyền thống lịch sử lâu đời và hào hùng: bốn ngàn năm văn hiến, văn minh sông Hồng, con rồng cháu tiên, những triều đại nổi tiếng chiến thắng ngoại xâm... Còn khi nói đến người Việt (ở) Nam bộ thì đầu tiên là kể về điều kiện tự nhiên thuận lợi của đồng bằng sông Cửu Long: vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, đất rộng người thưa, ít bị thiên tai như bão lụt hạn hán… Sau mới nói về nguồn gốc “lưu dân” và 300 năm hình thành (một lịch sử ngắn ngủi so với cội nguồn 4.000 năm). Nghiên cứu gia phả nhiều dòng họ, gia đình ở Nam bộ phần lớn được ghi nhận “thời ông cố ông sơ” từ miền Trung đi ghe theo biển vô Nam, đầu tiên định cư trên những giồng đất vùng cửa sông… rồi từ đó ngược các nhánh Cửu Long vào sâu vùng ngập trũng, khai phá đồng bằng và khai thác tự nhiên. Công cuộc khai phá này chẳng hề dễ dàng thuận lợi chút nào! Do đó tính thực tiễn được đặt lên hàng đầu: tất cả hướng đến thực tế, không lý thuyết suông, không giáo điều, lấy hiệu quả lao động làm mục đích chính. Ít khi than vãn, người Nam bộ hay nói “làm chơi ăn thiệt”. Đây chỉ là một cách nói đơn giản hóa, coi khó khăn đã qua như một việc chơi chơi, còn kết quả thực sự mới là quan trọng, là đã “có ăn” không phải nhờ vả ai.

 

Người Sài Gòn/Nam bộ di chuyển càng xa cái “gốc” thì sợi dây truyền thống càng dãn ra. Những đặc trưng của nông thôn làng xã của vùng sông Hồng biến đổi theo thời gian, bị/được đứt gãy do phải thích ứng với không gian khác. Thay vào đó là sự tự lập và tính linh hoạt ứng phó với hoàn cảnh điều kiện mới và từ đó tạo ra truyền thống mới. Đồng thời dễ tiếp thu cái mới, dám thay đổi cho phù hợp hoàn cảnh, thích nghi nhanh, chịu đổi mới “làm đại nghen? Ừa, làm đại đi!” là phong cách làm ăn Sài Gòn/Nam bộ. Làm đi, có sai cũng không sao, làm lại, sửa sai mấy hồi! Quan trọng là không mặc cảm sợ sai và sửa sai nhanh.

 

“Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, người Sài Gòn/Nam bộ từ nơi quê hương bản quán đã liên tục “đi” ba trăm năm có lẻ, tầm mắt được mở rộng, tinh thần tự do, phóng khoáng hơn. Hình như khi tự do thì con người trở nên khoan dung và nhân hậu hơn. Có lẽ vì vậy mà người ta thường gọi người Nam bộ/Sài Gòn một cách trìu mến là “Anh Hai Nam bộ, anh Hai Sài Gòn”.

 

Vì sao là anh Hai mà không phải là anh Cả? Có thể từ vài giả thuyết sau: Chúa Nguyễn Hoàng là người con trai thứ hai của Nguyễn Kim, mở đường vào Nam khai phá nên để tôn trọng ông, người dân gọi người con lớn của mình, trai hay gái, cũng chỉ là (thứ) Hai. Hoặc, có ý kiến cho rằng, khi có phong trào lưu dân vào Nam khai khẩn, trong gia đình thường để con trai thứ ra đi vì người con trai trưởng có vai trò ở lại quê nhà phụng dưỡng cha mẹ và thờ cúng tổ tiên. Cũng có người cho rằng, trong làng quê Nam bộ xưa có ông Cả (Hương Cả) là người đứng đầu, vì vậy trong các gia đình chỉ có người thứ Hai…

 

Tuy khác nhau về nguồn gốc “thứ Hai” của “anh Hai Sài Gòn” hay “anh Hai Nam bộ” nhưng có thể nhận thấy có chung một điểm: đó là người con thứ không bị ràng buộc trách nhiệm nặng nề “giữ hương hỏa, nền nếp” như người con trưởng nên có thể “rộng chân” ra đi, tự do hơn khi tiếp nhận cái mới, thay đổi cái cũ lạc hậu, dễ thích nghi, có khi thử, liều. Nhưng vì chỉ có “mình ên” không gia đình họ hàng bên cạnh để mà dựa dẫm “tại, vì, bởi…” nên phải có trách nhiệm “dám chịu” nếu lỡ sai lầm.

 

3. Về tính cách người Sài Gòn

 

Ở Sài Gòn khái niệm “người nhập cư” có lẽ chỉ được sử dụng trong cơ quan công quyền để phân biệt người có hộ khẩu và người không/chưa có hộ khẩu ở Sài Gòn, nhằm mục đích “quản lý hành chánh”. Giới nghiên cứu hay gắn khái niệm này với loại hình “kinh tế phi chính thức” trong việc nghiên cứu hoạt động kinh tế của đô thị Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh. Còn trong đời sống hằng ngày hầu như người Sài Gòn ít sử dụng cách nói “người nhập cư” hay “dân nhà quê”, “dân tỉnh” mặc dù ở miền Tây Nam bộ hay gọi người Sài Gòn là “người thành phố”, đi Sài Gòn là “lên thành phố”.

 

Đầu tiên, “người Sài Gòn” là sự hòa nhập về văn hóa (tính cách, lối sống, ngôn ngữ, tín ngưỡng, ẩm thực, trang phục…) của người Việt, người Hoa và những tộc người “bản địa”. Người ta cứ quen nói rằng “Sài Gòn 300 năm” nhưng đó chỉ là nói về thời kỳ thiết lập nền hành chính của Chúa Nguyễn từ năm 1698 mà quên mất/chưa biết Sài Gòn còn có quá khứ hơn 3.000 năm của văn minh Đồng Nai - Cửu Long. Văn minh ấy do những tộc người khác “Việt” dựng nên. Rồi từ thế kỷ XVI-XVII, người Việt, người Hoa đã dấn bước vào vùng đất này, từ đó Sài Gòn, Nam bộ có thêm lớp chủ nhân mới. Cùng với người Khmer, người Mạ, người Chăm… sự hòa nhập truyền thống, văn hóa của tất cả những chủ nhân đã tạo nên Sài Gòn và người Sài Gòn mới mẻ, năng động và chân tình.

 

Ở Sài Gòn/Nam bộ dư luận xã hội” không nặng nề khe khắt với những cái khác, cái mới. Là nơi sớm chịu ảnh hưởng của văn minh phương Tây trong đó có các giá trị dân chủ, bình đẳng nên, cùng với sự nhạt đi của tính chất phong kiến thì người Sài Gòn khá dân chủ trong các mối quan hệ xã hội và cả trong gia đình. Tính dân chủ còn thể hiện ở chỗ cá nhân ít lệ thuộc, phụ thuộc vào cộng đồng, vì thế trách nhiệm cá nhân cao “dám làm dám chịu”. Có thể nói tính cách người Sài Gòn gắn liền với chữ “LÀM”; “làm ăn”, “làm chơi ăn thiệt”, “làm đại”, “dám làm dám chịu”… sự liên kết gắn bó, hòa trộn ba đặc điểm trên tạo nên người Sài Gòn/Nam bộ. “3 trong 1” từ ứng xử đến làm ăn, trong sinh hoạt… không tách rời một đặc điểm nào, hình thành tính cách và hiệu quả của “công chuyện làm ăn” - như cách nói của người Sài Gòn.

 

Gần đây một số tờ báo có những bài viết về chủ đề “thế nào là người Sài Gòn?”, hầu hết các ý kiến đều cho rằng người Sài Gòn không chỉ là người “ba đời” sống ở Sài Gòn, càng không phải là người có “hộ khẩu thành phố”, mà là bất cứ ai dù quê ở đâu, sống ít hay nhiều năm tại Sài Gòn. Đó là những con người:

 

- Năng động nhưng không bon chen;

- Sôi nổi nhưng không ồn ào;

- Bình thản nhưng nghĩa hiệp, trượng nghĩa;

- Tôn trọng cá nhân nhưng hay làm từ thiện, thích giúp người;

- Chứng kiến điều xấu, là nạn nhân của cái ác nhưng luôn tử tế, vẫn tin người;

- Ăn xài thoải mái, biết tính toán nhưng không tính đếm so đo;

- Sống và chơi nhiệt tình, hết mình với bạn bè;

- Về thăm quê, rồi vào lại Sài Gòn mà cảm giác như về nhà;

- Không chê bai những gì khác mình, thích thì chơi không thích thì thôi, nhẹ nhàng;

- Không định kiến, dễ chấp nhận cái mới;

- Và cuối cùng là không lưu manh, ghét lưu manh.

 

Chỉ vậy thôi, bất kể người tỉnh nào vùng miền nào, miễn là sống ở Sài Gòn, rồi có tính cách như vậy, thì đó là Người Sài Gòn. Có thể nói đây là những tính cách khá “dương tính”, “hướng ngoại”, như nhiều nhà nghiên cứu văn hóa phân tích.

 

Khi nói đến Nam bộ thì không hay ít có sự phân biệt văn hóa và người Nam bộ nói chung với văn hóa và người Sài Gòn nói riêng (có chăng có thể phân biệt chút ít giữa Đông và Tây Nam bộ). Nếu không quá khắt khe có thể coi người/văn hóa Sài Gòn là đại diện cho người/văn hóa Nam bộ, từ giọng nói, ngôn ngữ, ẩm thực, tính cách, làm ăn… Có lẽ vì vậy mà ở Sài Gòn cần thì hỏi nhau “quê đâu” mà không hề có ý phân biệt người “quê” hay “thành”. Nhưng ở Bắc bộ hay Trung bộ thì khó có thể cho rằng người Hà Nội là đại diện cho cả vùng văn hóa miền Bắc hay người Huế đại diện cho toàn bộ văn hóa miền Trung, bởi vì tính chất “văn hóa vùng” ở hai miền này khá rõ: đồng bằng Bắc bộ có thể chia thành một số tiểu vùng văn hóa trong đó có tiểu vùng Thăng Long - Hà Nội (kinh kỳ, kinh đô). Còn miền Trung địa hình chia cắt vì núi ăn lan ra biển nên tính chất tiểu vùng càng rõ rệt, qua một đèo là giọng nói đã khác nhau…

 

Giai đoạn lịch sử hiện đại, quá trình dân cư của Sài Gòn cũng khác với nhiều đô thị khác: Trong chiến tranh, Sài Gòn là nơi mà nhiều người từ các tỉnh miền Trung đổ vào, từ miền Tây Nam bộ lên, nhất là khi chiến sự ác liệt. Sau năm 1975, Sài Gòn cũng là nơi có tình trạng thay thế dân cư lớn nhất và kéo dài cho đến nay: Người (thị dân) Sài Gòn ra đi lúc ồ ạt khi lặng lẽ, bằng nhiều con đường; người các tỉnh lại liên tục đổ vào Sài Gòn, cho tới nay chưa hề giảm bớt. Còn Hà Nội, trong chiến tranh dân cư rời bỏ thành phố đi về (tản cư, sơ tán) nông thôn, sau chiến tranh mới trở lại thành phố. Tuy nhiên, Hà Nội và Sài Gòn cũng một số điểm giống nhau: 1/ Phần lớn thị dân (có thể coi là tầng lớp người Hà Nội gốc và Sài Gòn gốc) đã rời thành phố đi nơi khác sinh sống sau khi chiến tranh chấm dứt; 2/ Chính quyền thiết lập sau chiến tranh (Hà Nội 1954 và Sài Gòn 1975) đều do (hầu hết) những người (kháng chiến) ở nông thôn, rừng núi trở về lãnh đạo; và 3/ hiện nay hai thành phố này có số lượng người nhập cư nhiều nhất. Những đặc điểm này làm cho Hà Nội và Sài Gòn hiện nay có phần giống nhau về sự khó khăn trong việc xây dựng nếp sống đô thị văn minh hiện đại.

 

Nhưng, ai đã vô Sài Gòn làm ăn sinh sống, chắc chắn sẽ trở thành “người Sài Gòn”, bởi Sài Gòn phóng khoáng và rộng rãi mang lại cơ hội cho mọi người, bởi Sài Gòn không tự coi mình là “đặc biệt” khi đang sống bằng nguồn lực của chính mình và của những người đến từ mọi miền, bởi Sài Gòn luôn chia sẻ, đóng góp những gì mình có cho cả nước.

 

Sài Gòn 3.2017

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 28-11-17