Tạp chí Văn Hoá Phật Giáo
số 11- 28-12-2005

 

Nỗi đau trong

Cánh Đồng Bất Tận

 

Thảo Vy

 

 

          “Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất động! Ngay tại đó! Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì – dù chỉ một lời.  Hãy im lặng và bất động hoàn toàn.  Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc sự việc làm cho mình giận dữ” (Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương).  Đoạn văn này được Nguyễn Ngọc Tư trích dẫn trong lời phi lộ của Cánh đồng bất tận, một tác phẩm văn học đang làm xôn xao dư luận.

 

          Nguyễn Ngọc Tư viết: “Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu, muốn đập phá mà không cho mình nhúc nhích, sao có thể hả hê?”.  Và trong Cánh Đồng Bất Tận, chị đã đưa một nỗi đau vào trong cõi hận.

 

          Cánh Đồng Bất Tận được bao trùm bởi một nỗi hận: nỗi hận bị vợ bỏ.  Thành phần hận nặng nề hơn thành phần ghét bỏ.  Lâu lâu, chúng ta cũng được nghe tiếng thở than nẫu ruột trong máy cassette: “Ôi đàn bà, đàn bà là những niềm đau…”, hay lại thấy một chàng trai, một người trung niên, một cụ già… vui vẻ cho người khác xem hình xăm chữ “hận đời” bên cạnh trái tim bị mũi tên xuyên thủng, rướm những giọt máu… màu xanh.  Nỗi hận trong Cánh Đồng Bất Tận ghê gớm hơn.  Khởi đầu chỉ là sự khó chịu, ghét những gì liên quan đến người vợ.  Nhưng dần dần nó phát triển thành ý muốn tiêu diệt những gì có thể nhắc nhở đến người vợ ấy.  Trước hết là sự đánh đập đứa con gái chỉ vì nó giống mẹ.  Sau đó, nỗi hận ấy được nâng lên thành nỗi hận phổ quát: hận tất cả đàn bà.  Ở Cánh Đồng Bất Tận, người đàn ông đốt nhà của mình rồi dẫn hai đứa con và đàn vịt vào những cánh đồng trong cõi hận.  Phản ứng thù hận người vợ phụ bạc là lẽ thường trong cuộc sống, nên hiều độc giả cảm thấy tâm lý ấy có thật.  Nhưng khi nỗi hận tăng lên đến mức: “Ôi đàn bà (nói chung)…”  thì người đọc cảm thấy quá dữ dội.  Vì vậy, nỗi hận ấy vừa thực nhưng vừa cường điệu.

 

          Với nỗi hận ghê gớm, người cha đã thực hiện việc trả thù… toàn bộ giới phụ nữ.  Ông ta quyến rũ họ, và khi họ vừa bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ chồng, bỏ con để “cuốn gói” theo… tiếng gọi tình yêu thì ông ta ngay lập tức bỏ rơi họ.  Nỗi hận ấy làm cho con người không ngượng ngùng, hổ thẹn và không chùn tay, không sợ hãi khi làm điều sai xấu.

 

          Hổ thẹn là một thành phần của cái biết, làm cho con người ta tự giác chấp nhận các qui tắc của đời sống xã hội.  Sự hỗ thẹn đó nảy sinh từ những giá trị chung mà mỗi cá nhân tự cho là đúng đắn và hợp lý.  Chẳng hạn, mỗi con người ở các địa vị khác nhau trong xã hội, việc ăn mặc, đi đứng, nói năng, hành xử đều phải tuân theo qui cách nhất định.  Người cha trong Cánh Đồng Bất Tận không có trách nhiệm dạy bảo các con, cũng không che đậy vì hành vi lừa dối, và sự thù hận là cái cớ làm cho ông không còn biết hổ thẹn.  Tính không hổ thẹn ấy có lúc đã đưọc đám đông hưởng ứng.  Đám đông trong đầu câu chuyện đã “đánh hội đồng” một người đàn bà một cách hăng say mà không hổ thẹn.  Trong khi, hổ thẹn làm cho người ta do dự và tránh các việc sai xấu, và sự do dự này là tốt và cần thiết cho sự ổn định xã hội.

 

          Sợ hãi là một thành phần khác của cái biết, làm cho người ta ngần ngại khi hành động xấu.  Người cha đã lừa dối, dụ dỗ những người phụ nữ cả tin.  Sau đó ông bỏ rơi họ (cho bỏ ghét), mà không sợ hậu quả xấu sẽ đến cho mình và cho các đứa con của mình.  Trong các loại không sợ hãi, thì không sợ quả báo là loại suy nghĩ làm cho xã hội mất ổn định nhất, vì mọi hành vi đều không bị giới hạn, miễn là thoát hỏi sự phán xét của công luận và luật lệ.

 

          Hổ thẹn và sợ hãi đóng vai trò như cái phanh kìm hãm con người làm điều sai xấu, và là bước đầu dẫn tới sự tự điều chỉnh của bản thân Hai thành phần này làm cho cách xử sự của xã hội trở thành văn minhHổ thẹn ngăn ngừa hành vi sai xấu từ bên trong, sợ hãi ngăn ngừa hành động từ bên ngoài.  Nhân vật người cha đã sống trong một “cõi” không có hai yếu tố quan trọng này, nơi không có các trật tự, luật lệ thông thường của con người.  Trong “cõi” đó, “…không thể phân biệt được đây là mẹ hay là em, chị của mẹ; đây là vợ của anh (hay em) của mẹ; đây là vợ của thầy hay đây là vợ của các vị tôn trưởng.  Và thế giới sẽ đi đến hỗn loạn như giữa các loài dê, loài gà vịt, loài chó, loài chó sói…”, nghĩa là chuyện loạn luân sẽ xảy ra.  Khi sự mê muội hoạt động thì các yếu tố bản năng như tình dục (ham dục) trở nên mạnh mẽ và sai lệch.  Trong nhiều chi tiết của câu chuyện, yếu tố tình dục chi phối mạnh, nhưng do miêu tả quá đậm đã làm cho câu chuyện trở nên u ám hơn.

 

          Cánh Đồng Bất Tận là sự thiếu vắng của ánh sáng, nên câu chuyện dường như diễn ra trong nền cảnh màu xám của các cơn mộng.  Sự thiếu vắng của ánh sáng là đặc trưng của sự tối tăm (si ám).  Trạng thái tối tăm này không phải là do sự thất học, bởi có những người trình độ học vấn cao nhưng lối sống vẫn rất tối tăm.  Người cha ấy tựa như người đi trong đêm tối, đã rời bỏ chỗ ở của mình, mang theo hai đứa con trong một hành trình vô định.  Chính do sự mê muội, ông luôn tạo ra nhiều nguyên nhân cho đau khổ trổ quả.  Sự mê muội ấy làm người đọc vừa thương vừa giận.

 

        Sự tăm tối được thúc đẩy bởi lòng tham, nóng giận hay sự suy nghĩ sai nên đã gây ra không ít điều ác.  Người cha bị thúc đẩy bởi lòng thù hận người vợ phụ mình, đã tạo ra nhiều tội lỗi.  Tuy vậy, người cha vẫn lờ mờ cảm thấy một trách nhiệm đối với hai đứa con của mình.  Chi tiết ông mua cho đứa con gái cái nhẫn để dành dành đám cưới cũng như việc “cởi cái áo trên người để đắp lên đứa con gái.  Ông ta bò quanh nó, tìm bất cứ cái gì để có thể che cơ thể nó dưới ánh mặt trời”, cho thấy tình thương và sự hối hận của người làm cha đã sống dậy.  Điều đó làm cho câu chuyện có lối thoát.

 

        Điểm nổi bật của Cánh Đồng Bất Tận là thông điệp: hãy sống nhân ái để khỏi bị quả báo khổ.  Nguyên lý nhân quả này là một loại nguyên lý bảo toàn trong đời sống.  Thời nay, chúng ta phải chứng kiến một nghịch lý, lớp trẻ, cần phải có một nguyên tắc sống, nhưng họ tin hoàn toàn vào nguyên lý bảo toàn trong tự nhiên, và không biết gì lắm về nguyên lý bảo toàn trong đời sống.  Trong khi đó, các bà già “trầu”, còn sống chẳng bao lâu, thì lại tin vào nguyên lý bảo toàn trong đời sống – rằng làm điều sai xấu thì phải chịu quả báo – chẳng hiểu và cũng chẳng cần phải hiểu đến các nguyên lý bảo toàn trong tự nhiên.  Ở đây, Cánh Đồng Bất Tận không chỉ nhằm mô tả hiện thực mà dùng hiện thực để nói lên vấn đề nhân quả.  Một nguời trẻ như Nguyễn Ngọc Tư mà có thể thâm nhập vào nguyên lý nhân quả dưới dạng cụ thể như vậy cũng là điều đáng mừng.  Nó cho thấy giới trẻ vẫn còn quan tâm đến các kết luận có giá trị vốn đã ăn sâu trong truyền thống văn hóa của dân tộc.

 

        Nếu không có lời phi lộ và không có sự báo ứng thì Cánh Đồng Bất Tận cũng chỉ nằm khuất đằng sau cái bóng của Trăm năm cô đơn.  Nó làm ta nhớ tới Giọt máu của Nguyễn Huy Thiệp với câu mở đầu “đem chuyên trăm năm giở lại bàn”.  Điểm khó khăn cho những nhà văn muốn chuyển Cánh Đồng Bất Tận thành phim là, nếu không khéo, bộ phim sẽ trở thành sự phô diễn cho một cuộc sống dữ dội, bản năng vói những ám ảnh tình dục không lối thoát.

 

          Cánh Đồng Bất Tận được mô tả với một ngòi bút tế nhị, nhiều khi có sự thông cảm, có lòng thương xót đối với người và vật (như những chú vịt hiểu ý người).  Tuy nhiên, cũng có độc giả cho rằng, do để nhân vật kể chuyện là con gái của người chăn vịt, người trải qua những cảnh khổ, nên nhiều chi tiết không hợp lý.  Có nhiều người cảm thấy ngộp vì tính cách dữ dội, tàn nhẫn của câu chuyện.

  

       Văn học Việt Nam hiện nay cũng có nhiều tác giả viết rất dữ dội.  Tuy nhiên cách xử lý của Nguyễn Ngọc Tư có sự khác biệt.  Nguyễn Ngọc Tư đã mô tả cuộc sống bản năng của một gia đình, cô lập nó ra khỏi ảnh hưởng của các quan niệm và các ý thức hệ xã hội.  Có nhà phê bình cho rằng “cánh đồng” ở đây là “cánh đồng cuộc đời” và “Tư đã đưa ngòi bút của mình ra khỏi nhà, khỏi xóm, đến với cánh đồng.  Hình như phải sống giữa đất trời mới ra con người Nam bộ, cả sự ngang tàng lẫn nỗi đau đớn”.  Nếu “cánh đồng cuộc đời” mà như vậy thì quá khủng khiếp.

 

         Mong rằng sắp tới, tác giả sẽ có những tác phẩm mang hơi thở thời đại hơn và vẫn đầy tính nhân bản. /.

 

Xin cám ơn anh Huỳnh Kim đã đánh máy, chép lại bài này từ báo giấy
lên mạng này ngày 2-1-02006

Trở về trang chủ Nguyễn Ngọc Tư