TỪ NGUYỄN TẤT THÀNH ĐẾN HỒ CHÍ MINH

(Sự hình thành một chọn lựa)

 


 

Chương 5
Nguyễn Ái Quốc trở thành Hồ Chí Minh

 


Tình hình mới

1. Mùa thu 1938, Nguyễn Ái Quốc rời Moskva để trở lại Trung Quốc.


Thế giới đang bị chủ nghĩa phát xít hăm doạ, chiến tranh sắp xảy ra. QTCS đã từ bỏ chủ trương khuynh tả. Liên Xô lập lại quan hệ ngoại giao với chính phủ Quốc dân Đảng, phục hồi đường lối mặt trận thống nhất đã tan rã hồi 1927. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã có thể ra hoạt động công khai: tháng 9-1937, Hồng quân, với Bát lộ quân và Tân tứ quân, đã được tổ chức lại dưới sự chỉ huy của Hội đồng quân sự của Quốc dân Đảng. Hai trường huấn luyện du kích do sự hợp tác của hai bên cũng được mở ra ở miền Nam.

Như 1925, Nguyễn Ái Quốc theo phái đoàn viện trợ của Liên Xô sang Trung Quốc, nhưng lần này với nhiệm vụ được quy định rõ rệt về Việt Nam: lôi cuốn Đảng Cộng sản Đông Dương vào mặt trận chống phát xít, tạm gác lại những yêu sách về đấu tranh giai cấp, liên hiệp hành động với tất cả những thế lực có thể liên hiệp được, kể cả những ngưởi Pháp "tiến bộ" ở Việt nam… [1] Do mất liên lạc với phong trào khá lâu, Nguyễn đã phải nhờ Đảng Cộng sản Trung Quốc giúp đỡ nương náu tại Bát lộ quân (do Diệp Kiếm Anh chỉ huy) chờ cơ hội [2].

Sau một thời gian tìm kiếm, đến cuối 1939, Nguyễn cũng đã gặp được cơ sở hải ngoại của Đảng CSĐD (do Phùng Chí Kiên phụ trách) cùng với một số cán bộ trong nước mới sang (Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Cao Hồng Lĩnh…) [3].

2. Nội tình Đảng vào lúc ấy cũng có những chuyển biến quan trọng. Xu hướng "tả khuynh" do Hà Huy Tập chủ xướng từ Đại hội Macao 1935 đã được uốn nắn lại sau khi những người tham dự Đại hội 7 QTCS 1935 (Lê Hồng Phong, Hoàng Văn Nọn, Nguyễn Thị Minh Khai) trở về. Đến tháng 3-1938 thì đường lối mới đã hoàn toàn rõ ràng khi Nguyễn Văn Cừ lên thay Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư. Chính phủ Léon Blum của Mặt trận Bình dân năm 1936 lên cầm quyền bên Pháp đã tạo ra cho phong trào chống thực dân ở Đông Dương những phương thức hoạt động mới: cùng với các xu hướng dân tộc (Nguyễn An Ninh…), Trotskít (Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu…), Đảng CSĐD cũng đã xuất hiện trong những cuộc tranh đấu công khai báo chí, nghị trường…

Nhưng khi Chiến tranh Thế giới nổ ra, tất cả những hoạt động cộng sản (dù Đệ tam hay Đệ tứ) đều bị cấm. Đảng CSĐD bắt đầu gặp khó khăn khi hàng loạt cán bộ bị bắt, thiếu thốn tài chính, trong khi đó sự liên lạc giữa miền Nam với miền Bắc, giữa Việt Nam và Trung Quốc gặp trở ngại.

Trước tình thế ấy, cuộc khởi nghĩa Nam kỳ năm 1940 đã nổ ra. Do chuẩn bị không chu đáo, lãnh đạo không chặt chẽ, bị nội gián nên kết quả rất tai hại. Cuộc nổi dậy bị dìm trong bể máu, hầu hết các cán bộ quan trọng của Đảng đều bị bắt và sát hại: Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai…, hoặc bị đi tù: Lê Duẩn, Lê Hồng Phong (chết ở Côn Đảo năm 1942), Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo…

3. Nguyễn Ái Quốc đã nối lại phong trào cộng sản Việt Nam trong hoàn cảnh đó. Nhiều thuận lợi (nhất là sau khi Pháp đầu hàng Đức tháng 6-1940) nhưng rất yếu kém về thực lực. Báo cáo của Nguyễn gửi QTCS cho biết là tám, chín phần mười số cán bộ cũ đã bị bắt, còn số mới thì còn thiếu kinh nghiệm, lại thiếu người đủ "uy tín và danh vọng" để lãnh đạo [4]. Trong tình cảnh đảng viên và quần chúng như rắn không đầu đó, Nguyễn cho rằng không thể từ trong đánh ra mà phải tạo một căn cứ địa ở ngoài để đánh vào. Để thực hiện chiến lược này, Nguyễn đề nghị QTCS sản giúp đỡ mấy điều cần thiết sau đây: Tự do hành động ở biên giới, một ít súng đạn, một ít kinh phí, vài vị cố vấn [5]. Báo cáo trên đây cho thấy định hướng của Nguyễn: tự mình đứng ra đảm nhiệm vai trò lĩnh tụ có "uy tín và danh vọng" nói trên, một người có khả năng vừa tập hợp lực lượng bên trong lại vừa vận động được sự chi viện của bên ngoài.


Phương thức hoạt động mới

1. Như hồi 1925, từ căn cứ địa Trung Quốc, tập hợp và củng cố lại đội ngũ những hạt nhân lãnh đạo là việc mà Nguyễn khởi đầu. Nhưng khác với thời Quảng Châu trước đây, lần này công việc lại diễn ra ở Vân Nam là vùng kiểm soát của Quốc dân Đảng nên phải tìm cách che giấu tung tích cộng sản của mình. Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (về sau này gọi tắt là Việt Minh) đã được sử dụng trong tình thế đó. Đây là một tổ chức chính trị có sẵn từ năm 1936 (do Hồ Học Lãm một nhà yêu nước Việt Nam có chân trong Quốc dân Đảng Trung Quốc lập ra ở Nam Kinh) nay được tranh thủ để hoạt động lại cùng với một tổ chức bình phong khác mới lập ra như Trung Việt Văn hoá Công tác Đồng chí Hội, Việt Nam Dân tộc Giải phóng Đồng chí Hội. Tất cả đều là kết quả của những thủ thuật vận động theo kiểu "mặt trận" do Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo: không những hợp tác với những người Việt Nam hoạt động trong hàng ngũ Quốc dân Đảng Trung Quốc như Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, Dương Kế Vinh… mà còn phải lợi dụng chính những cán bộ Quốc dân Đảng Trung Quốc như Trương Phát Khuê, Lý Tế Thâm… để dễ bề hoạt động.

2. Kết quả: Nguyễn và các đồng chí của mình đã tiếp cận được biên giới Việt Nam, liên hệ được với phong trào trong nước (Hoàng Văn Thụ, uỷ viên Trung ương, Bí thư xứ uỷ Bắc kỳ), sau đó tổ chức Hội nghị toàn thể lần thứ 8 của ĐCSĐD vào tháng 5-1941, mở đầu cho một giai đoạn đấu tranh mới. Thuận lợi đã đến với Nguyễn một cách tự nhiên: do những người biết rõ về Nguyễn đều đã chết hoặc đi tù nên trong hội nghị này Nguyễn Ái Quốc trở thành lãnh tụ không hề bị hạch hỏi về danh nghĩa như những năm 1930, 1935 nữa. Ngược lại, ẩn hiện trong màn sương quá khứ kỳ bí, cái giai đoạn gọi là "đau buồn" và "biệt tích" ở Liên Xô lại có tác dụng làm tăng thêm tiếng tăm của Nguyễn. Có lẽ để khẳng định thêm uy lực của một nhà cách mạng đã trở thành trưởng thượng, Nguyễn đã làm cho mình già hơn đi, bằng cách để râu dài khi bước vào tuổi 50.

Sau Hội nghị 8, ngày 6- 6-1941, Nguyễn đã có ý định xuất hiện trước công chúng bằng hình ảnh nhà cách mạng cộng sản lão thành đó: dùng chính tên Nguyễn Ái Quốc "kính cáo đồng bào" cả nước, hứa sẽ "đem hết tâm lực" cùng đồng bào mưu giành tự do độc lập, "dầu phải hy sinh tính mệnh cũng không nề" [6]. Nhưng có lẽ nhận thấy thời cơ chưa cho phép, tên "Nguyễn Ái Quốc" đã không được công khai sử dụng tiếp: toàn bộ những bài viết của Nguyễn đăng trên 30 số báo Việt Nam độc lập từ tháng 8-1941 đến tháng 8-1942 đều không ký tên (cũng không có bút danh) [7].

3. Một tên khác đã được thay thế và tên ấy về sau đã trở nên lừng lẫy mà ai cũng biết, đó là "Hồ Chí Minh". Nhưng do suốt thời gian từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943, khi bí mật ra sang Trung Quốc cầu viện, Nguyễn bị Quốc dân Đảng bắt giam, nên phải đợi đến cuối 1944 mới xuất hiện – trong "Thư gửi quốc dân đồng bào" tiên đoán "cơ hội giải phóng cho dân tộc ta chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa", do đó cần khẩn trương chuẩn bị [8] – để từ đó được sử dụng chính thức cho đến cuối đời.

Nhiều người đã bàn luận về ý nghĩa của cái tên đã trở thành lịch sử đó. Thật sự thì chẳng qua đó cũng chỉ là một cái tên trong vô số những cái tên (không kể bút danh) mà Nguyễn đã dùng trong cuộc đời hoạt động. Hồi mới từ Liên Xô sang Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã lấy bí danh là Hồ Quang [9] để làm việc trong Đệ Bát lộ quân của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hồ Quang là một tên Trung Hoa, vì bấy giờ Nguyễn giả danh làm người Trung Hoa; bí danh này vẫn được dùng khi Nguyễn móc nối lại được với các đồng chí Việt Nam của mình ở Vân Nam. Nhưng cũng trong thời kỳ ấy, trên đường về biên giới Việt-Trung, Nguyễn đã mang theo trong người 3 tờ giấy đi đường (do Quốc dân Đảng cấp) đề năm 1940, tất cả đều mang tên Hồ Chí Minh [10]. Cái tên này, thật sự cũng chẳng khác gì cái tên Hồ Quang trước đây bao nhiêu – đó chỉ là một trong nhiều cái tên giả có nguồn gốc Trung Hoa.

Đem cái tên ấy ra sử dụng một cách công khai tuy có hơi bất tiện (vì hoàn toàn xa lạ với công chúng), nhưng phải chấp nhận vì lý do chính trị – chưa đến lúc bộc lộ mình là cộng sản. Một người cộng sản mà giữ vai trò lãnh đạo cả một phong trào dân tộc lúc bấy giờ sẽ bị cô lập và phản tác dụng. Liên Xô đang bị Đức xâm chiếm, cách mạng Trung Quốc chưa thành công, cuộc chiến đấu giành độc lập của Việt Nam (dù chống Nhật hay sau này chiến tranh với Pháp) cần được phe Đồng minh (nhất là Mỹ) ủng hộ. Đưa chuyện chống tư bản, chuyên chính vô sản ra là vô cùng tai hại. Nguyễn Ái Quốc hẳn nhớ rất rõ bài học Đại hội 6 của QTCS năm 1928 và Đại hội Macao của Việt Nam năm 1935 mà bản thân Nguyễn đã là nạn nhân [11]. "Hồ Chí Minh" vì thế đã trở thành biểu tượng của một sự tính toán sách lược.


Tính chất hai mặt của một vai trò

1. Mọi người đều biết, dưới cái tên "Hồ Chí Minh", Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện sách lược ấy như thế nào sau cách mạng 1945.

  • Bằng nhiều cách, không ngớt kết án thực dân đã tung ra luận điệu Hồ Chí Minh là cộng sản [12]. Luôn thanh minh rằng Hồ Chí Minh chỉ là người yêu nước thuần tuý.

  • Chính phủ Hồ Chí Minh bao gồm nhiều đảng phái: Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội, Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, Quốc dân Đảng. Trong các đảng tham gia chính phủ, không có tên Đảng Cộng sản Đông Dương. Đảng này đã được Hồ Chí Minh báo với tướng Trần Tu Hoà, đại diện Tưởng Giới Thạch, là đã "tự động giải tán" [13].

  • Đặc biệt đối với Quốc dân Đảng (với những lãnh tụ như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh…) nương theo đoàn quân của Lư Hán sang Đông Dương để chia quyền, đã thực hiện một chính sách nhân nhượng hết sức đặc biệt (thân thiện mời hợp tác [14], vào chính phủ liên hiệp [15], không cần bầu cử vẫn được nhường cho 70 ghế trong Quốc hội [16] ).

  • Đối ngoại: coi Mỹ là bạn [17], Anh trung lập, riêng Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch là rất hữu hảo! Ngôi sao trong quốc kỳ Việt Nam đã được Hồ Chí Minh giải thích như sau:

    "Trung Quốc là một nước to lấy mặt trời làm tiêu biểu. Việt Nam là một nước nhỏ lại có quan hệ mật thiết với Trung Quốc, đã mấy ngàn năm cho nên lấy ngôi sao làm tiêu biểu" (!) [18]


2. Ai cũng đều biết thực chất của cái sách lược trên đây là gì khi được "vận dụng" bởi một nhân vật từng coi Lenin là thần tượng: đó là sách lược của những bước thụt lùi tạm thời, những nhân nhượng có tính toán. Hãy lấy vài thí dụ để xem xét:

– Việc "giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương": Như sau này Hồ Chí Minh cho biết thực chất của việc tự giải tán ấy chỉ là sự rút vào bí mật thôi, và đó là sự rút lui cần thiết, vì biết đứng trước tình hình gay go vào lúc bấy giờ

"Đảng phải dùng mọi cách để sống còn, hoạt động và phát triển, để lãnh đạo kín đáo và có hiệu quả hơn, và để có thời giờ củng cố dần dần lực lượng của chính quyền nhân dân, củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất.

Lúc đó Đảng không thể do dự. Do dự là hỏng hết, Đảng phải quyết đoán mau chóng, phải dùng những phương pháp – dù là những phương pháp đau đớn – để cứu vãn tình thế" [19].

Một điều quan trọng khác: trong khi Đảng rút vào bí mật, thì để thực hiện "đa đảng", Đảng đã "giúp đỡ" Đảng Dân chủ rồi Đảng Xã hội ra đời [20], để cùng với "Việt Nam Đồng minh Hội" đóng vai trò công khai trong chính phủ lâm thời.

– Sự nhân nhượng đối với phe Quốc dân Đảng Việt Nam là điều bó buộc vì lẽ những người này đang có sau lưng họ đoàn quân Lư Hán của Tưởng Giới Thạch sang "giải giới" Nhật đã đầu hàng. Nhưng để đối phó, Hồ Chí Minh đã ký Hiệp định 6-3 và Tạm ước 14-9-1946, thoả hiệp với Pháp để đẩy quân Lư Hán đi. Bị chỉ trích là "hữu khuynh", Hồ Chí Minh đã dẫn Lenin:

"Lênin có nói rằng: Nếu có lợi cho cách mạng thì dù phải thoả hiệp với bọn kẻ cướp, chúng ta cũng thoả hiệp" [21].

3. "Hồ Chí Minh" như vậy chỉ là một thứ "vai trò" của một tình thế nhất định. Khi kịch bản thay đổi thì vai trò ấy cũng phải thay đổi. Điều này đã xảy ra vào năm 1949, khi Đảng Cộng sản Trung Quốc giành được chính quyền. Sau chuyến đi bí mật sang Trung Quốc và Liên Xô, đầu năm 1950, về nước, Hồ Chí Minh đã công khai đứng tên ra lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm cách mạng tháng 8 và ngày độc lập:

"Về phía ta, mấy năm kháng chiến đã đưa lại cho nước ta một cuộc thắng lợi to nhất trong lịch sử Việt Nam, tức là hai nước lớn nhất thế giới – Liên Xô và Trung Quốc dân chủ, và các nước dân chủ mới đã thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong đại gia đình dân chủ thế giới. Nghĩa là ta đã đứng hẳn về phe dân chủ và nhập vào khối 800 triệu nhân dân chống đế quốc" [22].

Những bài viết, bài nói ca ngợi Stalin [23], ca ngợi Mao Chủ Tịch [24] đã thấy xuất hiện; các chính sách giảm tô [25], cải cách ruộng đất, chỉnh huấn [26], chỉnh Đảng… đã theo những cố vấn, những thùng hàng viện trợ của Trung Quốc tràn sang những vùng kháng chiến – tất cả đều đựợc Hồ Chí Minh chính thức cổ vũ, đôn đốc, trên báo chí trong các hội nghị quần chúng, Quốc hội, Đảng.

"Hồ Chí Minh" bây giờ không cần phải giấu giếm lai lịch "Nguyễn Ái Quốc" của mình nữa. Nhưng do tên "Hồ Chí Minh" đã trước bạ chính thức là Chủ tịch một đất nước vừa thực hiện xong cuộc Cách mạng tháng Tám và đang tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân, mọi việc đang đi theo cái đà của sự thuận lợi, cho nên không cần thay đổi lại tên họ.

Trong Đảng nếu Nguyễn Ái Quốc với Hồ Chí Minh đã là một, thì bây giờ điều này cần phải phổ biến rộng ra cho đồng bào và thế giới biết, lấy những năm bôn ba của Nguyễn Ái Quốc để khẳng định vai trò lĩnh tụ tuyệt đối của Hồ Chí Minh, không phải với phong trào cộng sản Việt Nam mà còn là của toàn bộ dân tộc Việt Nam nữa.


Sự thành công của Hồ Chí Minh

1. So với giai đoạn hoạt động ở nước ngoài của "Nguyễn Ái Quốc" (1920-1940) thì giai đoạn trở về của "Hồ Chí Minh" (từ 1940 về sau) có vẻ suôn sẻ hơn: chính là trong những năm tháng này, Hồ Chí Minh đã khẳng định được uy tín cao nhất của một lĩnh tụ Đảng, củng cố lại lực lượng, cuối cùng hoàn tất được mục đích về quyền lực – thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, sau đó kháng chiến đuổi thực dân Pháp khỏi Đông Dương, thiết lập được chế độ cộng sản ở Việt Nam.

Những thành công ấy có thể giải thích được bằng nhiều nguyên nhân cụ thể, lịch sử, khách quan lẫn chủ quan (chẳng hạn: sự suy yếu của chủ nghĩa đế quốc nói chung, sự ngoan cố và hẹp hòi của thực dân Pháp, sự ủng hộ của Liên Xô đối với phong trào đấu tranh của những nước thuộc điạ và phụ thuộc, chỗ dựa trực tiếp từ phong trào cộng sản Trung Quốc, sự yếu kém của những lực lượng chống thực dân theo xu hướng không cộng sản ở Việt Nam so với ĐCSĐD v.v…) nhưng tất cả đều những nguyên nhân thực tế ấy đã được những nhà sùng bái Hồ Chí Minh pha loãng ra hoặc cố ý đẩy vào hàng tuỳ phụ với mục đích mang tính chất ý thức hệ không giấu giếm: đưa lên hàng đầu vai trò của Hồ Chí Minh, coi đó là nguyên nhân của mọi nguyên nhân tạo nên thắng lợi. Từ một nhân vật của lịch sử, Hồ Chí Minh đã bị giản lược vào một biểu tượng, một vai trò, cuối cùng được nâng lên thành một huyền thoại [27].

2. Thật sự thì cuộc đời hoạt động thực tế của Hồ Chí Minh cho đến nay vẫn còn nhiều bí ẩn. Nhưng qua những tài liệu đã tìm được, người ta thấy, tuy nghị lực mãnh liệt, bản lĩnh xoay sở tài tình, ông vẫn là một con người bình thường với những "hệ luỵ nhân sinh" bình thường.

Tuyên truyền thường nói ông đã hy sinh đời riêng để phục vụ cách mạng, nhưng thực sự ông đã có vợ, ít nhất thì cũng là hai người: một người Trung Hoa là Tăng Tuyết Minh và một người Việt Nam là Nguyễn Thị Minh Khai. Quan hệ của ông với Nguyễn Thị Minh Khai đã được phát hiện trong Hồ sơ QTCS, do chính Nguyễn Thị Minh Khai khai trong lý lịch dự Đại hội 7 QTCS năm 1935 tại Moskva và đã được Tổng Bí thư ĐCSĐD của Đại hội Macao bấy giờ xác nhận, chi tiết này mới được Sophie Quinn-Judge công bố trong luận án của bà [28], một số tác giả khác cũng đã nói đến, nhưng chưa thấy có công trình nghiên cứu nào nói rõ hơn. Còn chuyện tình của ông với Tăng Tuyết Minh thì do nhà sử học Hoàng Tranh người Trung Quốc viết hẳn thành một bài báo đăng trên một tạp chí Trung Quốc [29]. Cũng có nhiều mối quan hệ của ông Hồ với nhiều người đàn bà khác nữa, nhưng phần nhiều đó chỉ là những tin đồn, chưa có bằng cớ để khẳng định hay phủ định.

Về mặt cách mạng thì những người sùng bái ông Hồ thường hình dung cuộc đời của ông như một ý hướng thống nhất từ trẻ cho đến già; uy tín cách mạng của ông lúc nào cũng sáng ngời từ lúc bôn ba hải ngoại cho đến khi trở về thành công. Nhưng chúng ta đã biết, sự thật không phải như vậy. Những ngày bỏ nước ra đi trong suốt một thời gian dài của ông không có gì thật quan trọng để tác động trực tiếp vào tình hình đất nước: chỉ là những dò dẫm tìm đường theo hướng ra ngoài "cầu ngoại viện" không khác gì những người yêu nước đầu thế kỷ 20.

Thời gian ông tìm gặp chủ nghĩa Lenin rồi sang Nga trở thành cán bộ của QTCS, thực sự vai trò của ông không có gì là quan trọng lắm. Lệ thuộc hoàn toàn vào đường lối của QTCS lúc bấy giờ không chú ý đến Việt Nam; muốn hoạt động được, luôn luôn phải chạy vạy xin xỏ nhiều chuyện (tiền bạc, chỉ thị…), nhưng khi gặp những sai lầm về đường lối – đặc biệt sau Hội nghị hợp nhất các Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 tại Hồng Kông – ông không tránh khỏi bị ĐCSĐD gạt ra ngoài, bị QTCS khiển trách và ngưng công tác trong một thời gian khá dài để được đào tạo lại [30].

3. Sùng bái cá nhân không phải là sản phẩm riêng biệt của những người cộng sản Đệ Tam. Nhưng trong trường hợp ông Hồ thì không thể không nghĩ đến cái gương của những "lĩnh tụ vĩ đại" như Stalin và Mao Trạch Đông mà ông khâm phục và coi việc sùng bái đó như một điều tự nhiên. Chẳng qua cũng chỉ để thống nhất lòng người có lợi cho sự nghiệp chung thôi. Dù vậy cũng không nên noi gương các đàn anh một cách quá lộ liễu, cho nên trong thực hiện phải châm chước đi và làm sao cho có vẻ… Việt Nam một chút – thay vì la hét những thứ "thiên tài" hoặc "cầm lái vĩ đại" rồi đánh giết lung tung thì chọn "vai trò" một ông lão bình dân, giản dị trong các làng xã truyền thống. Là "Bác" của các cháu thiếu nhi [31], và cũng là "Cha già" [32] của đại gia đình dân tộc. Luôn kêu gọi tiết kiệm và kết đoàn.

Tuy vậy cũng cần chú ý điều sau đây: người đi đầu và để khá nhiều công sức để tạo ra hình ảnh ấy lại không phải ai khác mà chính là… Hồ Chí Minh! Trong kho trước tác của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy khá nhiều bài nói, bài viết của chính ông, khi ký trực tiếp, khi dưới những bút danh khác nhau [33], ca ngợi bản thân. Phần nhiều đều được che giấu dưới nhận xét của những người làm báo, người dân bình thường, hồn nhiên ca ngợi những đức tính của vị " lĩnh tụ kính yêu", khuyên nên đọc những tác phẩm của Hồ Chí Minh và khi có dịp nào đó thì thét lên khẩu hiệu "Hồ Chí Minh muôn năm" rất… vô tư! Như thể việc ca ngợi Hồ Chí Minh đã là chuyện thường ngày, đương nhiên như hơi thở của cuộc sống rồi!

Những ai có biết chút ít về cái gọi là "phong cách Hồ Chí Minh" đều hiểu lý do. Đó là một thói quen ông thường sử dụng trong tuyên truyền, không khác gì việc ông từng mượn Khổng Mạnh [34] hoặc làm vè bình dân để nói chuyện chính trị vô sản. Sự "nôm na", "giản dị" ở đây đã tạo ra được cái tác dụng thật "vĩ đại" của nó: làm cho hình ảnh vị "cha già" hiền lành của dân tộc đồng hoá được với hình ảnh của một lĩnh tụ cộng sản trí tuệ tuyệt vời. Nó làm cho chủ nghĩa cộng sản xa lạ và gay gắt (đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản…) có thể đến với nhân dân một cách nhẹ nhàng hơn. Những lời phán của một người mà khi còn sống đã được đưa lên bàn thờ [35] dù sao vẫn có tính chất thiêng liêng!

Nhưng cũng từ đó, khuếch tán bởi bộ máy truyên truyền cách mạng, những sự tâng bốc quá đáng đã xảy ra. So với những anh hùng của đất nước trong thời hiện đại, ông được miêu tả như là vượt lên tất cả, về tài trí lẫn đức độ: không phải chỉ là con người đẹp nhất của dân tộc mà còn là kết tinh của những giá trị văn hoá của thời đại và nhân loại. Đất nước không có ông sẽ chìm mãi trong nô lệ, dân tộc sẽ mãi mãi nghèo hèn, không ngóc đầu lên được. Nhờ có "Người", nhân dân ta mới được cứu độ vì thế phải biết ghi nhớ "công ơn trời biển của Người" cho đến "muôn đời con cháu mai sau"! Giở bất cứ "tác phẩm" nào viết về Hồ Chí Minh được bày bán tại các hàng sách ở Việt Nam, chúng ta đều có thể tìm ra ít nhiều những lời ca ngợi tương tự, không cần dẫn chứng.

Tuy vậy, có một điều cũng nên ghi nhận thêm: mặc dù được tiếng là "khiêm tốn" [36], hồi còn sống, ông đã không hề làm gì để hạn chế bớt những quá đáng ấy. Trong khi đó thì thái độ úp mở, giấu mặt, khi cần thiết lại cố tình che giấu [37] của ông, ngược lại, đã có tác dụng làm cho những thứ tuyên truyền huyễn hoặc đó có lý do để phát triển ngày càng ồn ào.


Tư tưởng của Hồ Chí Minh

Hiện tượng ấy cũng là tất yếu: con người Hồ Chí Minh sở dĩ được thần thánh hoá như vậy chỉ cốt để thần thánh hoá cái phần chính yếu của ông, cái mà những nhà sùng bái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh. Và đó là thủ thuật quan trọng để vĩnh viễn hoá sự tồn tại của Hồ Chí Minh đối với lịch sử đất nước: trong khi con người Hồ Chí Minh chỉ là một tượng đài và xác ướp thì tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi trong đời sống của nhân dân. Nhưng tìm hiểu đến tận nguồn cội câu chuyện rắc rối này chúng ta không thể tin vào sự sùng bái dễ dãi đó.

1. Chúng ta hãy đọc lại đoạn Hồ Chí Minh nói về thần tượng của mình là Lenin và chủ nghĩa Lenin:

"Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong đấu tranh vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ" [38].

Mọi việc đã quá rõ ràng: chủ nghĩa Lenin là điểm đến trong cuộc hành trình tinh thần của Hồ Chí Minh, còn giải phóng dân tộc, yêu nước chỉ là đường đi. Đúng hơn: một chặng đường – cái trung gian cần thiết phải qua nhưng không phải là cái vĩnh viễn. Và điều kiện do ông đưa ra để thực hiện cũng rất rõ ràng: toàn bộ giai đoạn đấu tranh giành độc lập phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phải được "phe xã hội chủ nghĩa" giúp đỡ. Hai câu của ông sau đây: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" và "Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn" đã diễn tả rõ thêm điều kiện nói trên: chủ nghĩa xã hội vừa là biện pháp lại vừa là mục đích của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc [39].

Hồ Chí Minh đã nhận thức được điều này lúc mới sang Nga năm 1924. Trong một bài viết bằng tiếng Pháp (không đề tên nhưng được xem là của ông), ông nêu câu hỏi: tại sao Moskva lại phát động "chủ nghĩa dân tộc bản xứ" nhân danh QTCS? Câu trả lời của ông là: tuy nghịch lý táo bạo nhưng đó là một chính sách hiện thực tuyệt vời. Lý do: "chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước", động lực này nếu những người cộng sản biết khai thác thì sẽ hoàn toàn có lợi cho việc thực hiện mục đích cách mạng của mình.

"Giờ đây, người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ. Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi, thì đã lâu lắm rồi, phần lớn thế giới sẽ xôviết hoá và lúc đó, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế. Trong khi chờ đợi, chủ nghĩa dân tộc sẽ quấy rối chủ nghĩa đế quốc Pháp và bằng việc làm này, Quốc tế Cộng sản sẽ được lợi trực tiếp" [40].

Lập luận ở đây khá rạch ròi: không cần giấu giếm cái ý định của QTCS muốn khai thác phong trào tranh đấu của những nước thuộc địa để "quấy rối" chủ nghĩa đế quốc. Và đó cũng chính là lập luận của Lenin: vấn đề những nước phụ thuộc và thuộc địa không thể tự thân tồn tại mà phải phục vụ cho lợi ích của cách mạng vô sản thế giới [41].

Về mặt khái niệm, các chữ dùng khá chính xác: "chủ nghĩa dân tộc" (là một ý thức hệ) ở đây có vẻ thích hợp hơn mấy chữ "chủ nghĩa yêu nước" (là một tình cảm). Chúng gợi cho ta nhận xét sau đây: về mặt tình cảm, những người sùng bái Hồ Chí Minh có thể yên tâm gọi ông là người "yêu nước-cộng sản" (hay người "cộng sản-yêu nước" cũng được), nhưng về mặt ý thức hệ thì quá trình tư tưởng của ông đã chứng minh rằng Hồ Chí Minh chỉ có thể là người theo chủ nghĩa cộng sản chứ không thể vừa theo chủ nghĩa dân tộc vừa theo chủ nghĩa cộng sản được. Rõ ràng mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và cộng sản đã được Hồ Chí Minh giải quyết theo cách mà Lenin, người sáng lập ra Quốc tế Ba đã giải quyết rồi [42].

2. Vấn đề thật quan trọng với Hồ Chí Minh: nhờ "vận dụng" lại thứ lý luận mác-xít mà Lenin đã "vận dụng" vào các nước chậm phát triển trên đây mà ông đã thành công trong chặng đường đầu tranh đấu để sau này có thể tiến lên hoàn thành mục đích tối hậu của ông: Đảng Cộng sản đã giành được quyền lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thực hiện được mục tiêu quan trọng là giải phóng nhân dân thoát khỏi sự thống trị của chủ nghĩa thực dân. Có thể hình dung một cách tổng quát chiến lược tranh đấu đó như sau:

  • Tiên quyết phải có một Đảng Cộng sản bao gồm những nhà cách mạng chuyên nghiệp, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật sắt, thề nguyện suốt đời xả thân cho lý tưởng cộng sản để lãnh đạo toàn bộ quá trình cách mạng. Hầu hết những hạt nhân lãnh đạo đều được tuyển mộ trong hàng ngũ tiểu trí thức thành thị.

  • Lập mặt trận thống nhất, tuỳ theo giai đoạn, liên hiệp với tất cả những thành phần xã hội có thể liên hiệp được, để cô lập triệt để đối tượng cần đánh đổ (địa chủ hay tư bản, đế quốc này hay đế quốc khác…). Nhưng bên dưới, phải đặc biệt tranh thủ nông dân, coi bần và trung nông là chủ lực của cách mạng, dựa vào đó huy động tài chính, tạo cơ sở che giấu cán bộ, vận động dân công, bổ sung lính…

  • Không nên bám vào một phương thức nào mà phải tuỳ theo sự thay đổi trong tương quan lực lượng giữa "ta" và "địch" mà đề ra phương pháp đấu tranh cho thích hợp: tiến hay thoái, hợp tác hay chống đối, thoả hiệp hay tấn công, làm chiến tranh hay kêu gọi hoà bình, công khai hay bí mật… Và đó là ý nghĩa của câu "dĩ bất biến ứng vạn biến" mà ông Hồ rất thích nói đến.

So với những đảng phái gọi là "quốc gia" chỉ biết trông cậy vào sự hỗ trợ bên ngoài hoặc chỉ huy động trí thức thành thị và dựa vào một phương pháp tranh đấu nhất định… rõ rệt chiến lược trên đây của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ ra hơn hẳn [43].

3. Người ta không lấy làm lạ khi trả lời phỏng vấn hoặc viết cho các báo nước ngoài, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc lại những lời lẽ rất "tâm đắc" sau đây:

"Ở nước ta và ở Trung Quốc cũng vậy, có câu chuyện đời xưa về cái cẩm nang đầy phép lạ thần tình. Khi người ta gặp những khó khăn lớn, người ta mở cẩm nang ra, thì thấy ngay cách giải quyết. Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái cẩm nang thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản" [44].

Trong văn bản này, ông dùng mấy chữ "chủ nghĩa Lênin", chỗ khác ông dùng "chủ nghĩa Mác-Lênin", nhưng ở đâu ông cũng cho rằng nhờ cái "cẩm nang" đó, Đảng Cộng sản sẽ đạt được mục đích cuối cùng sau những chiến thắng dọn đường. Cái mục đích cuối cùng ấy có đạt được hay không thì chúng ta còn phải chờ xem, nhưng xét những cái đã qua, khẳng định nói trên của ông không phải là không hiện thực – như chúng ta đã biết. Nhưng để tránh bị đẩy vào cái bẫy "khái quát hoá" thì cần xác định rõ tính chất cụ thể của chiến lược ấy: đó không phải là học thuyết toàn diện của Marx và Lenin về chủ nghĩa xã hội. Riêng đối với Lenin thì đó cũng chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong lý luận về cách mạng của ông: đó là sách lược "lợi dụng" phong trào dân tộc ở những thuộc địa để chống đế quốc. Chiến lược ấy cũng không mang lại kết quả mong đợi: nhiều Đảng Cộng sản ở những thuộc địa vẫn được trang bị cho cái "cẩm nang" ấy, nhưng đã không đi đến đâu (chúng ta hãy nhớ lại trường hợp N. Roy của Ấn Độ). Cái "cẩm nang" mệnh danh là "chủ nghĩa Mác-Lênin" đó, vì vậy, đã không hề có giá trị vạn năng.

4. Ngay bản thân cái khái niệm "Mác-Lênin" mà ông sử dụng rất tự nhiên cũng không có sự nghiêm ngặt về nội dung tư tưởng của những người có liên quan với cái học thuyết mà ông nói đến. Không hoàn toàn là Marx: ông không cần biết đến điều kiện tiên quyết của Marx để làm cho chủ nghĩa xã hội gọi được là "mác-xít" là sự phát triển tột độ của chủ nghĩa tư bản tổng thể. Cũng không đúng hoàn toàn về Lenin: ông không cần biết đến điều kiện mà Lenin đặt ra để cho cuộc cách mạng 1917 gọi được "xã hội chủ nghĩa mác-xít" là phải có sự hỗ trợ của cuộc cách mạng vô sản đích thực đã thành công ở phương Tây. Còn cái học thuyết gọi chung là "Mác-Lênin" mà ông và guồng máy tuyên truyền của ông ra sức phổ biến vào Việt Nam cũng chỉ là một thứ lý luận mác-xít đã bị dung tục hoá và tầm thường hoá hết mực: coi những kết luận của Marx về sự giẫy chết tất yếu của chủ nghĩa tư bản, sự sinh thành tất yếu của "cõi đời mới" do giai cấp vô sản lãnh đạo, sự cần thiết của "chuyên chính vô sản" trong quá trình tiến lên chủ nghĩa cộng sản v.v… là những cái đương nhiên đã là chân lý, chính nghĩa, tất yếu chỉ cần noi gương Lenin vận dụng một cách "sáng tạo" vào những hoàn cảnh cụ thể là đủ, nhất định thành công.

Có thể do bản chất của ông thiên về những cái thiết thực, không ưa nghiền ngẫm về những cái trừu tượng, xa vời và cũng có thể do nhu cầu thực tế của cuộc đấu tranh bí mật, lâu dài, trong khi thuộc nằm lòng bài bản của Lenin về việc sử dụng "mặt trận thống nhất" và những kỹ thuật tổ chức lập Đảng, vận động quần chúng để cướp chính quyền, ông không quan tâm đào sâu đến tận cùng cơ sở lý luận của cái cùng đích mà ông nguyện dấn thân cho nó, từ nguồn gốc đến những biến thái phức tạp về sau. Ông rất hay nói đến lý tưởng và đạo đức: trong những bài viết của ông, khái niệm "chủ nghĩa xã hội" lúc nào cũng hiện ra như một cái gì đó rất giống với cái thế giới đại đồng châu Á thời cổ, tràn ngập thái bình và an lạc, chứ không phải là "hiện thực" hoặc "khoa học" theo cách mà những nhà mác-xít hay nói… Thiên hướng cảm tính, dựa nhiều vào lòng tin và nhu cầu thực dụng khi đến với cái "cõi đời mới" do Lenin gợi ra từ những ngày đầu vẫn còn ghi dấu thật đậm trong những bài gọi là "lý luận" của Hồ Chí Minh về sau này [45].

5. Nhưng chúng ta đều biết: thứ chủ nghĩa xã hội "cảm tính" ấy ở Hồ Chí Minh đã không dừng lại. Cùng với thời gian, việc nghiên cứu, tìm hiểu thêm đã làm cho cái cái lý tưởng mơ hồ ấy trở nên cụ thể hơn, nhờ tiếp xúc nhiều hơn với sách vở "Mác-Lênin" và cuộc sống "xã hội chủ nghĩa" trong thực tế mà Liên Xô bấy giờ đang là một hình mẫu. Trong cái hình mẫu ấy, "chủ nghĩa Mác-Lênin" vẫn còn được nhân danh để thuyết giảng, nhưng đã không còn sự tính toán quanh co của Lenin về "bước thụt lùi" kiểu NEP, ở đó cũng không có những ưu tư của Lenin về tình hình quan liêu, bất lực, suy thoái trầm trọng của bộ máy nhà nước chuyên chính vô sản do Đảng lãnh đạo. Mọi thứ đều phơi phới đi về tương lai rạng rỡ dưới sự lãnh đạo của "lĩnh tụ thiên tài"!

Tất cả đều phải quy về nhiệm vụ trung tâm là đẩy nhanh nhịp độ công nghiệp hoá. Công nghiệp nặng là then chốt. Để có tích luỹ phục vụ chương trình công nghiệp hoá ấy thì cũng phải nhanh chóng hợp tác hoá nông nghiệp. Để đáp ứng những nhu cầu chuyển đổi nhanh chóng đó, phải sử dụng không nương tay bộ máy bạo lực chuyên chính của Đảng để dập tắt tất cả những xu hướng bất đồng trong Đảng và xã hội. Phải triệt tiêu tất cả bọn trốts-kít phản động và bọn hữu khuynh mưu toan phục hồi chủ nghĩa tư bản. Tẩy não. Trại tập trung. Chủ nghĩa tập thể, v.v. và v.v… Cái mô hình gọi là "xã hội chủ nghĩa" ấy không phải cái gì khác hơn là mô hình toàn trị stalinít, mô hình này không lạ gì với Hồ Chí Minh trong những năm ông bị giữ lại ở Liên Xô để học tập [46].

Nhưng sự việc không phải chỉ như vậy: trong quá trình "vận dụng" để thực hành, cái mô hình stalinít kiểu Liên Xô ấy còn được bổ sung cho phong phú hơn bằng một thứ chủ nghĩa Stalin khác không kém phần ác liệt đến từ Trung Quốc: đó là mô hình của Mao Trạch Đông về vai trò của bần cố nông trong đấu tranh đánh đổ chế độ chế độ phong kiến, thực hành cải cách ruộng đất. Phóng tay phát động quần chúng. Đấu tố. Tam cùng. Chỉnh huấn, v.v và v.v…

Nội dung của cái gọi là "chủ nghĩa Mác-Lênin" trên đây đều đã du nhập vào Việt Nam ngay trong những ngày cách mạng giải phóng dân tộc chưa thành công: ngay trong chiến tranh, "chủ nghĩa xã hội" đó đã được đem ra thực hiện rồi! Vì thế người ta có thể hình dung ra rất dễ dàng tính chất của thứ "xã hội chủ nghĩa" mà Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem ra áp dụng ở miền Bắc đất nước như thế nào sau khi đã đánh đuổi xong thực dân Pháp: một mô hình stalinít toàn trị trong đó tất cả đời sống xã hội đã bị Nhà nước hoá một cách khắc nghiệt, chẳng dính dấp gì đến cái lý tưởng mà Hồ Chí Minh đã ấp ủ từ những ngày đầu ông đến với Lenin! Cái "cẩm nang" của ông không còn tạo ra những chuyện "thần kỳ" nữa: đất nước thiếu tất cả mọi thứ căn bản cần thiết cho cuộc sống, ngoại trừ những lời lẽ ồn ào về "tương lai rạng rỡ" phát ra từ những Nghị quyết của Đảng.


“Tư tưởng Hồ Chí Minh”?

Có thể có một thực tại lý luận gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh" hay không? Nếu xem đó như một hệ thống những luận điểm có ý nghĩa canh tân hoặc phát triển học thuyết "Mác-Lênin" thì khái niệm ấy quá khiên cưỡng: những gì liên hệ đến nội dung của khái niệm "chủ nghĩa xã hội" mà Hồ Chí Minh đã đem về cho Việt Nam đều đã có sẵn nơi các bực thầy cộng sản Đệ Tam, như chúng ta đã biết. Nơi Lenin: về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản. Nơi Stalin: về mô hình xây dựng chế độ toàn trị công nghiệp hoá. Nơi Mao Trạch Đông: về vai trò của bần cố nông trong cải cách ruộng đất và thanh lọc Đảng.

Những cái được Hồ Chí Minh tiếp nhận ấy đều nẩy sinh từ quá trình giành quyền lực từ tay thực dân về cho Đảng Cộng sản: vấn đề chống chủ nghĩa thực dân ở đây đã cũng là vấn đề quyền lực của Đảng. Hai vấn đề khác nhau về bản chất, trong sự biện luận của những nhà lý luận cộng sản Đệ Tam Việt Nam, đã bị đồng nhất hoá. Tư tưởng của Hồ Chí Minh đã gắn chặt với những nhu cầu bức xúc và trực tiếp của cuộc đấu tranh mang tính chất hai mặt ấy: tìm kiếm chỗ dựa bên ngoài, tạo tính chính đáng để bảo vệ sự nhất trí cho tổ chức và củng cố uy tín cho bản thân v.v… Có thể gọi đó những tư tưởng thực hành. Thiên hướng trỗi bật trong tính cách của Hồ Chí Minh là sự thực hành, cho nên tư tưởng của ông đã nghiêng hẳn về những cái thiết thực, cụ thể. Nếu "tư tưởng" như vậy được xem là đồng nghĩa với "ý thức hệ" thì Hồ Chí Minh chính là một nhà ý thức hệ, một người chọn lựa một ý thức hệ có sẵn để hành động.

Tính chất đặc biệt trong vấn đề tư tưởng của Hồ Chí Minh do đó chính là cái cách thức diễn giải, truyền bá những gì mà ông đã tiếp thu được để phục vụ cho các mục tiêu thiết thực ấy. Nôm na, giản dị, dựa vào truyền thống phương Đông, Khổng Mạnh, dân tộc, làm vè, diễn tuồng, viết văn vần, viết báo… chủ yếu nhắm vào đám đông quần chúng để "giáo dục", "vận động" họ – đó mới chính là phong cách độc đáo của Hồ Chí Minh.

Không thực sự chú ý đến tính chất hiện thực đó trong những phát biểu của Hồ Chí Minh về mặt lý luận, rồi tạo ra khái niệm "tư tưởng Hồ Chí Minh" huyễn hoặc, từ đó xưng tụng Hồ Chí Minh là "nhà tư tưởng vĩ đại", "nhà lý luận thiên tài" [47], những người sùng bái đã làm tổn hại uy tín ông nhiều hơn là nâng ông lên cao.


Mấy luận cương về Hồ Chí Minh

1. Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước. Ông đã hoàn thành mong mỏi của mọi người Việt Nam qua các thời đại: đánh đuổi các lực lượng ngoại xâm. Từ tình cảm yêu nước ông đã đến với chủ nghĩa cộng sản Đệ Tam. Dựa vào cộng sản Đệ Tam, vận dụng những phương pháp tổ chức của Lenin, ông đã giành lại được chủ quyền cho dân tộc và quyền lực cho Đảng Cộng sản để xây dựng nên một nước Việt Nam mới.

2. Đem chủ nghĩa cộng sản ra áp dụng, ông hy vọng sẽ xây dựng cho đất nước một thể chế chính trị mang lại hạnh phúc vĩnh viễn cho nhân dân: một mô hình phát triển hiện đại dựa trên sự bình đẳng và tự do cho mọi người. Thực tế đã chứng minh đó chỉ là mộng tưởng hão huyền. Thứ "chủ nghĩa cộng sản" mà ông đem ra thực hiện chỉ có tác dụng duy nhất là duy trì chế độ toàn trị stalinít. Thực chất của "chủ nghĩa Mác-Lênin" mà Hồ Chí Minh tiếp nhận chỉ là chủ nghĩa Stalin.

3. Đã có nhiều lực lượng yêu nước chống chủ nghĩa thực dân đồng thời với Hồ Chí Minh, nhưng tại sao chỉ có Hồ Chí Minh thành công? Trả lời câu hỏi này, những người không chấp nhận sự chọn lựa của Hồ Chí Minh không thể không chiêm nghiệm lại những thất bại của mình. Một cái nhìn thực tế về mối quan hệ giữa phong trào giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản trong thế kỷ 20 là rất cần thiết cho những ai thật sự muốn học ở lịch sử những điều bổ ích. Những bài học ấy không thể xuất hiện trên mảnh đất tinh thần chứa đầy thành kiến và hận thù.

4. Những người cộng sản cũng không thể căn cứ vào việc đánh đổ được chủ nghĩa thực dân để áp đặt mãi mãi học thuyết "Mác-Lênin" của Hồ Chí Minh lên đời sống dân tộc. Học thuyết ấy không bắt nguồn từ những suy tưởng nghiêm chỉnh của trí tuệ. Đó chỉ là kết quả của những nhu cầu chính trị thực dụng nhất thời, "vận dụng" vào xây dựng đã tỏ ra không tưởng, cuối cùng trở thành công cụ thống trị.

5. Không thể nhìn qua sự chọn lựa của Hồ Chí Minh một cái thiện tuyệt đối hoặc một cái ác tuyệt đối, như các nhà ý thức hệ đối nghịch nhau đã làm. Sự chọn lựa của Hồ Chí Minh là một hành vi lịch sử, đã bị những điều kiện của thời đại ông quy định: một thế kỷ đầy đổ vỡ, tràn ngập hy vọng và cũng quá nhiều ảo tưởng. Ông đã đem về cho những người cùng thời với ông nhiều tự hào nhưng cũng nhiều thất vọng.

6. Đưa ông lên thiên đàng hay đẩy ông xuống địa ngục đều không xứng với chỗ đứng của một nhân vật trần gian như ông. Hướng về một tương lai mới, tốt nhất là hãy kính trọng ông như một anh hùng đã thuộc về quá khứ: chỉ có cách đó chúng ta mới có thể nhận ra được những ý nghĩa tích cực trong cuộc đời tranh đấu của ông.

Sài Gòn 1. 11. 2002

© 2007 talawas


 


[1] RC, 495, 10a, 140, p. 106 ; Sophie Quinn-Judge, Sđd, tr. 218. Khác với hồi năm 1927, lần này Nguyễn Ái Quốc đã ghi ra nội dung của chỉ thị sẽ đem truyền đạt và gửi lại QTCS để được kiểm tra. Sau đây là đại ý nội dung của chỉ thị được Nguyễn nhớ lại để báo cáo lại với QTCS:

1.   Khẩu hiệu không cao, cốt để có thể hoạt động hợp pháp

2.   Mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi

3.   Tư sản dân tộc: lôi kéo vào Mặt trận

4.   Trôtskít: tay sai phát xít, phải tiêu diệt về mặt chính trị.

5.   Liên hệ với Mặt trận bình dân Pháp

6.   Đảng phải trung thành, hoạt động, chân thực nhất để tranh thủ Mặt trận

7.   Củng cố Đảng: chống bè phái, nâng cao lý luận, quan hệ với đảng Pháp.

8.   Kiểm soát báo chí của Đảng để tránh khuyết điểm về kỹ thuật và chính trị.

(“Báo cáo gửi Ban chấp hành QTCS” tháng 7-1939, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, tr. 138-139).
[2] Tình trạng tìm kiếm này đã được Nguyễn báo cáo với CSQT như sau: “Trong khi chờ đợi, để khỏi phí thời gian tôi đến làm việc phiên dịch các tin tức thế giới (nghe đài thu thanh) ở Bát lộ quân, làm bí thư chi bộ, chủ nhiệm câu lạc bộ và hiện nay, uỷ viên uỷ ban câu lạc bộ. Đồng thời tôi đã viết một cuốn sách nói về Khu vực đặc biệt và một số bài báo phản ánh những biến cố chính trị và quân sự, sự tàn ác của bọn Nhật bản, tinh thần anh dũng của các chiến sĩ Trung Quốc, cuộc đấu tranh chống bọn tờrốtxkít… để tuyên truyền quốc tế.
Từ ngày 12-2-1939, số lớn những bài đó đã được đăng trên tờ Notre Voix, tuần báo công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản tại Hà Nội. Trên các bài đó tôi đều ghi Quế Lâm và ký tên Lin, hy vọng rằng các đồng chí có trách nhiệm có thể đoán được ai là tác giả và hiện người đó ở đâu. Nhưng hy vọng này không đạt được” (“Báo cáo gửi Ban chấp hành QTCS” tháng 7-1939, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, tr. 140-141).
[3] Thanh Đạm: Nguyễn Ái Quốc trên đường về nước, Nxb Nghệ An &Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, tr. 227.
[4] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, tr. 171.
[5] Hồ Chí Minh toàn tập, T3, tr. 174.
[6] Nguyễn Ái Quốc: “Kính cáo đồng bào”, ngày 6-6-1941, Hồ Chí Minh toàn tập, T. 3, tr. 198.
[7] Hồ Chí Minh toàn tập, T. 3, Chú thích 24, tr. 625.
[8] Hồ Chí Minh toàn tập, T. 3, tr. 505-506.
[9] Thanh Đạm: Sđd, tr. 215.
[10] 1) Thành viên của Hiệp hội những phóng viên Trung Hoa trẻ, 2) Thông tín viên đặc biệt của Hãng tin quốc tế, 3) Giấy phép đi lại cho cán bộ của Đệ tứ chiến khu (Báo cáo của Trương Phát Khuê, Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 242).
[11] Về sau Nguyễn đã có dịp chỉ trích đường lối tả khuynh đó như sau: “… chính sách Đại hội Macao vạch ra không sát với phong trào cách mạng thế giới và trong nước lúc bấy giờ (như định chia ruộng đất cho công nhân nông nghiệp, chưa nhận rõ nhiệm vụ chống phát xít và nguy cơ chiến tranh phát xít”. (“Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng”, 11-2-1951. Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 6, tr. 155 ).
[12] Trả lời một nhà báo nước ngoài 22-6-1947: “Hỏi: Vì sao có người tin rằng Chính phủ Việt Nam là Chính phủ cộng sản? - Trả lời: Tuyên truyền của thực dân phản động Pháp nhất là Đo đốc Đác-giăng-liơ, đã lần lượt đặt cho chúng tôi là cộng sản, phát xít, đế quốc, thân Nhật, bài ngoại, v.v… Điều đó không có gì đáng lạ, vì họ không ưa chúng tôi, song tôi chắc rằng nhân sĩ thế giới không ai tin họ; một là vì Chính phủ Việt Nam gồm đủ các đảng phái và các nhân sĩ không đảng phái, hai là chính sách Việt Nam rất rõ rệt: cốt làm cho nước Việt Nam thống nhất và độc lập, làm cho dân được tự do và khỏi khổ khỏi chết”. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, tr. 155)
[13] Tướng Trần Tu Hoà thay mặt Bộ tư lệnh Tưởng Giới Thạch, muốn đứng ra điều đình giữa các đảng phái để lập chính phủ liên hiệp lâm thời. Hồ Chí Minh trả lời 19-12-1945 :“Việt Nam Độc lập Đồng minh không phải là một đảng mà là một mặt trận đoàn kết toàn dân, bao gồm các đảng phái (đảng dân chủ, phái xã hội), các phần tử Quốc dân Đảng, Đảng Cộng sản (đã tự động giải tán) và các đoàn thể yêu nước không đảng phái như Hội Thanh niên Cứu quốc, Hội Phật giáo Cứu quốc, Hội Cơ đốc giáo Cứu quốc v.v…” (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, tr. 117).
[14] Thư gửi Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh mời tham gia Tổng tuyển cử, báo Việt Nam số 19, 6-12-1945 (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, tr. 112-113).
[15] Chủ tịch: Hồ Chí Minh; Phó Chủ tịch: Nguyễn Hải Thần; Cố vấn: Vĩnh Thuỵ; Ngoại giao: Nguyễn Tường Tam; Nội vụ: Huỳnh Thúc Kháng; Kinh tế: Chu Bá Phượng; Tài Chính: Lê Văn Hiến; Quốc Phòng: Phan Anh; Xã hội, Y tế, Lao động: Trương Đình Tri; Giáo dục: Đặng Thai Mai; Tư pháp: Vũ Đình Hoè; Giao thông: Trần Đăng Khoa; Canh Nông: Bồ Xuân Luật; Kháng chiến uỷ viên, chủ tịch: Võ Nguyên Giáp, Phó: Vũ Hồng Khanh (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, tr. 193-194).
[16] “Trả lời các báo”, Cứu quốc 28-12-1945: Hỏi: Tại sao có 70 đặc cách trong Quốc hội? - Trả lời: Vì anh em Quốc dân Đảng không ra ứng cử. - Hỏi: Sao lại trái nguyên tắc dân chủ vậy? - Trả lời: Muốn khi đi tới dân chủ nhiều khi phải làm trái lại. Thí dụ: muốn đi tới hoà bình có khi phải chiến tranh. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, tr. 125).
[17] “Tại Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam vẫn còn lưu giữ báo Việt Nam độc lập, cơ quan Việt Minh Cao Bắc Lạng, do Bác Hồ sáng lập và điều hành. Trong tờ báo này có một số bài viết và tin tức về hoạt động hợp tác Việt-Mỹ trên chiến khu, có bài báo Bác Hồ ca ngợi Tổng thống Mỹ Roosevelt là người anh hùng khi nghe tin ông qua đời vào lúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II sắp kết thúc. Nhưng trong tờ báo này có một phụ bản rất độc đáo. Đó là một tranh vẽ gồm 8 bức hình hướng dẫn nhân dân cách cứu phi công Mỹ. Phía trên những bức tranh ấy có vẽ hai lá cờ: sao vạch của Hoa Kỳ và cờ đỏ Sao Vàng là cờ của Việt Minh. Ở giữa hai lá cờ lại có một vần thơ: "Bộ đội Mỹ là bạn ta - Cứu phi công Mỹ mới là Việt Minh". Bức tranh và câu thơ này đến nay vẫn được coi là do Bác vẽ”. (Phan Thế Hải, VietNamNet 11-8-2004).
[18] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, tr. 169-170.
[19] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 6, tr. 161.
[20] Đảng Dân chủ: Thành lập 30-6-1944. Giải tán: 20-10-1988. Đảng Xã hội: Thành lập 22-7-1946. Giải tán: 15-10-1988.
[21] Lenin toàn tập, Tập 41, Tiến bộ, Matxcơva, 1977, tr. 24.
[22] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 6, tr. 81-82
[23] Báo cáo trước hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa II, ngày 25-1-1953 về Đại hội 19 cuả Đảng CS Liên Xô (10-1952), ca ngợi cuốn sách của Stalin Những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô: “Quyển sách ấy dạy chúng ta xem xét thêm sáng suốt tương lai của thế giới và làm cho chúng ta càng chắc chắn về tiền đồ nhất định thắng lợi của chúng ta. Cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng cần phải nghiên cứu những tài liệu của Đại hội thứ XIX, nhất là quyển sách của đồng chí Xtalin và phải biết áp dụng vào hoàn cảnh kháng chiến, kiến quốc của chúng ta” (Hồ Chí Minh toàn tập Tập 7, tr. 10).
[24] Tóm tắt nội dung Thực tiễn luận của Mao Trạch Đông, Nhân dân 19-7-1951 (Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 6, tr. 247).
[25] Bài nói tại Hội nghị Nông vận và Dân vận toàn quốc (5-2-1953): “Từ năm 1949 đã có sắc lệnh giảm tô, đến nay đã 4 năm và vẫn chưa thực hiện triệt để. Xem đó thì biết rằng giảm tô không phải là vấn đề giản đơn, nó là một bộ phận của giai cấp đấu tranh, giai cấp nông dân đấu tranh với giai cấp địa chủ. Đây cũng là một chiến dịch nhưng chiến dịch này to và rộng hơn chiến dịch Hoà Bình, Tây Bắc vì nó mở ra khắp cả nước. Nó càng khó hơn đánh giặc, vì đánh giặc thì đưa vũ khí ra mà đánh, trong chiến dịch này nông dân không đưa súng đạn ra đánh với địch, nhưng phải dùng một thứ vũ khí mạnh hơn, tức là lực lượng tổ chức và lực lượng đoàn kết của hàng triệu nông dân. Đảng và Chánh phủ là Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Tổng Tham mưu của cuộc đấu tranh này” (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, tr.26).
[26] Bài nói chuyện ở lớp chỉnh huấn cán bộ trí thức (15-7 đến 26-9-1953): “Nghe nói các ngành, các cá nhân ôn lại, xét lại những việc làm mình làm trong thời Pháp thuộc, thấy thằng Pháp xấu xa và làm nhục mình.
Đặc biệt anh em thấy nó đối đãi, giáo dục mình là nhục nhã hơn. Những thấy thế vẫn chưa triệt để. Thấy nhục là một bước, phải tiến lên bước nữa: thấy tội của mình. Vì Pháp nhồi sọ, mua chuộc mình nên đã đối đãi với nhân dân như thế nào, điều ấy anh em chị em chưa nghĩ tới. Thấy mình nhục đã đành, còn phải thấy tội nữa.
Xin lỗi cụ Bùi (có tiếng cụ Bùi: “Không dám xin cụ cứ nói”) ví dụ: thời trước cụ làm thầy giáo thì không có gì là tham ô, lãng phí của nhân dân, vì dạy bao nhiêu giờ lĩnh bấy nhiêu tiền. Nay xét lại, lúc đó dạy thì dạy gì, đào tạo người thì đào tạo cho ai? Vì “tôn sư trọng đạo”, cụ ở địa vị ông thầy, nên được lớp trí thức trọng cụ, dân cũng trọng cụ. Nhưng ông thầy lúc ấy nói gì? Nói chống Tây thì nó đá đít. Dù muốn hay không, cũng phải nói đế quốc, phong kiến là tốt. Như thế là có thể có tội với nhân dân rồi. Tôi nghe đây có 4 đời là học trò cụ. Như thế là tứ đại nô lệ.
Tóm lại, các ngành thấy Tây đối đãi với mình là nhục, nhưng phải tiến lên bước nữa xét tội của mình đối với nhân dân. Để đi đến đâu? Đi đến càng căm thù đế quốc phong kiến”. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, tr. 108-109).
[27] Xem Lữ Phương: “Huyền thoại Hồ Chí Minh”, Thư Nhà tháng 5-2001
[28] Thư ngày 31-3-1935 của Hà Huy Tập gửi QTCS đã nhắc đến Nguyễn Thị Minh Khai như là “vợ của Nguyễn Ái Quốc”. Còn Minh Khai (bí danh là Fan Lan) đã khai trong lý lịch dự Đại hội là “đã kết hôn” và tên chồng là “Lin” (bí danh của Nguyễn Ái Quốc). Nhưng trong lý lịch của mình, không thấy Nguyễn khai là đã có vợ (RC, 495, 201, 35; Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 201).
[29] Về mối tình giữa Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh, đã nói qua trong chú thích số 29, chương III “Từ Nga sang Trung Quốc”. Nay nói thêm một chút về đoạn kết của cuộc tình ấy. Theo tác giả Hoàng Tranh, tháng 5-1950, thấy hình và tiểu sử Hồ Chí Minh đăng trên Nhân dân nhật báo, bà Tăng Tuyết Minh đã báo cáo với tổ chức và gửi mấy bức thư cho ông Hồ nhờ Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh (bấy giờ là Hoàng Văn Hoan) chuyển. Nhưng không có trả lời. Một cán bộ đã đến gặp bà, đưa bằng cớ xác nhận Hồ Chí Minh đúng là chồng bà, ngày trước mang tên Lý Thuỵ, nhưng lại giải thích tại sao “không tiện liên lạc“ và mong bà “lượng thứ”, “yên tâm công tác”. Vẫn theo Hoàng Tranh, năm 1960, Hồ Chí Minh đã nhờ lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu tìm tung tích Tăng Tuyết Minh nhưng cũng không thấy kết quả gì. Được biết bà Tăng Tuyết Minh làm nghề hộ sinh, gia đình theo đạo Công giáo từ đời ông nội, bà “thường xuyên đi lễ” và có thói quen “ăn uống đạm bạc, không dùng thịt cá”, “luôn luôn vui vẻ giúp người”. (Hoàng Tranh: “Hồ Chí Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, tạp chí Đông Nam Á Tung hoành số tháng 11-2001, xuất bản tại Nam Ninh. Bản dịch tiếng Việt: Minh Thắng, đăng trên tạp chí Diễn Đàn (xuất bản tại Pháp), số 121 tháng 9-2002).
[30] Đã nói rõ trong chương IV: “Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam”.
[31] Trong những thư đầu gửi thiếu nhi, Hồ Chí Minh xưng là “Già Hồ”: “Trung thu này, Già Hồ không có gì gửi tặng các em. Chỉ gửi tặng các em một trăm cái hôn thân ái” (“Tết Trung thu với nền độc lập”, Cứu quốc 17-9-1945). Sau đó khoảng một năm mới xưng là “Bác Hồ”.
[32] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch (1948). Thường được coi là cuốn tiểu sử do Hồ Chí Minh ký tên khác để viết về mình. Sau này, có thông tin cho biết cuốn này do thư ký riêng của ông là Vũ Kỳ viết. (Vấn đề này đã đề cập trong Chương 1: “Cuộc ra đi của Nguyễn Tất Thành”).
[33] Thí dụ:
– Tân Sinh: Việt Bắc anh dũng, Tổng bộ Việt Minh xuất bản, 1948: “Ngay lúc bắt đầu kháng chiến, Hồ Chủ tịch ra lệnh: Trường kỳ kháng chiến… Ngay trước khi Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội, Hồ Chủ tịch đã đoán trước: Địch sẽ cố chiếm lấy mấy thành thị và mấy đường giao thông. Bộ đội chúng càng rải rác. Lực lượng chúng càng mỏng manh, ta càng dễ tiêu diệt chúng.
Ngay lúc đầu Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Chỉ huy đã định dùng chiến thuật du kích để tiêu diệt địch.
Càng ngày chíng ta càng thấy những ý định trên là sáng suốt, nhất là trong cuộc địch tấn công vào Việt Bắc, chúng ta càng thấy rõ như thế” (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, tr. 341)
– Trần Lực: “Giấc ngủ mười năm”, Tổng bộ Việt Minh xuất bản, Việt Bắc, 1949. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, tr. 605-623). Trong truyện ngắn này, có khẩu hiệu “Việt Nam độc lập muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!”.
– ZIN: “Chúng tôi vững tin vào thắng lợi cuối cùng của mình”, tuần báo Vì một nền hoà bình lâu dài, vì một nền dân chủ nhân dân, bản tiếng Pháp 21-8-1953: “Việc học tập những vấn đề trên được thực hiện trên cơ sở những tác phẩm của Mác, Angghen, Lênin, Xtalin và báo cáo của đồng chí Malencốp tại Đại hội 19 Đảng CSLXô, những tác phẩm của đồng chí Mao Trạch Đông, những bài viết của đồng chí Hồ Chí Minh, những văn kiện của Đảng” (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, tr. 101).
[34] “Các chế độ quân chủ sùng kính Khổng Tử không chỉ vì ông không cách mạng mà vì ông đã tuyên truyền cật lực cho các chế độ ấy. Nếu Khổng Tử sống đến ngày nay và nếu ông ấy cứ bám mãi lấy những quan điểm ấy, ông ấy sẽ là phản cách mạng. Có thể ông siêu nhân ấy sẽ nhân nhượng hoàn cảnh và nhanh chóng trở thành môn đệ của Lênin… Đối với người Việt Nam chúng ta, chúng ta hãy bồi dưỡng trí tuệ mình bằng cách đọc tác phẩm của Khổng Tử, và cách mạng hoá mình bằng cách đọc tác phẩm của Lênin” (Xem Huỳnh Kim Khánh: Vietnamese Communism, 1925-1945, Sđd, tr. 80).
[35] Hãy nhớ lại đoạn văn sau đây trong sách của Trần Dân Tiên: “Ông có biết anh Ba hiện nay thế nào không?” – “Không, tôi rất tiếc là tôi không biết.” – “Ông có muốn tôi nói cho ông biết không?” – “Còn gì bằng nữa!” – “Ông quay lại xem, anh Ba ấy đây kìa!” Tôi vừa nói vừa chỉ chân dung Hồ Chủ tịch treo trên bàn thờ giữa những bình hoa, bình hương, đèn nến”. ( Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 19).
Stalin cũng đã được bộ máy tuyên truyền cộng sản Đệ Tam nhiều nơi xưng tụng là “le génial petit père des peuples” – “người cha già nhỏ thiên tài của các dân tộc”! Quyền sinh sát của Stalin ghê gớm nhưng vẫn chưa được đưa lên bàn thờ.
[36] Tôi được nghe kể một câu giai thoại nhỏ về tính khiêm tốn của Hồ Chí Minh: khi nghe người ta hô “Hồ Chí Minh muôn năm!”, ông bèn giễu lại: “Hồ Chí Minh muốn nằm!”. Nghe có vẻ vui, nhưng cũng có vẻ “kịch”! Tính chất “kịch” trong ứng xử của Hồ Chí Minh, nhiều người quanh ông đã nhận ra. Sau đây là câu chuyện do một cán bộ thông tấn thuật lại. Trong đoàn người khá đông tháp tùng theo ông Hồ đi thăm một vùng nông thôn miền Bắc sau 1954, có ai đó đã vô tình đạp lên một vài khóm mạ vừa cấy xong và bỏ đi luôn. Nhưng điều đó lại được ông Hồ chú ý, ông dừng lại và tự mình vun lại khóm mạ cho ngay ngắn. Thuật lại chuyến thăm viếng ấy trong một bài báo, người cán bộ thông tấn đã cố tình không nói gì đến chi tiết khóm mạ bị đạp. Tác giả bài báo đã được tổng biên tập mời đến cho biết chính Bác Hồ đã đọc bản thảo và hỏi tại sao tác giả lại không nói gì đến chi tiết đó! Người cán bộ thông tấn ấy lắc đầu và nói thêm: Ông Cụ rất rành về chuyện viết báo tuyên truyền, muốn qua mặt Cụ một chút mà không được!
[37] Vũ Kỳ (thư ký riêng của Hồ Chí Minh) xác nhận đã nói với bà Phan Thị Minh những lời sau đây: “Bác thường không nói chính thức về quá trình hoạt động trước đây cũng như những mối quan hệ của Bác trước đây. Hễ trực tiếp hỏi Bác thường tránh không trả lời. Vì vậy các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Tố Hữu v.v… thường nhắc tôi tìm cách gợi chuyện để Bác nói, trong khi vui chuyện, trong bữa cơm chẳng hạn… Phải cố nhớ để sau này ghi lại, nếu Bác thấy đưa giấy bút ra là thôi không nói nữa. Định bố trí máy ghi âm ghi trộm cũng không làm được” (Phan Thị Minh: “Về quan hệ giữa Phan Chu Trinh và Nguyễn Ái Quốc”, trong Thu Trang: Những hoạt động của Phan Chu Trinh tại Pháp 1911-1925, Sđd, tr. 125)
[38] “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin” (1960), Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 10, tr. 128.
[39] Những nhà sùng bái thường dựa vào hai câu nói này đưa ra luận điểm gọi là “kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”, coi đó là sự sáng tạo của “nhà lý luận thiên tài” Hồ Chí Minh (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia: “Lời giới thiệu bộ Hồ Chí Minh toàn tập”, Hồ Chí Minh toàn tập, T. 1, Sđd, tr. X). Nhận định ấy dựa trên giả định về sự đồng hàng của khái niệm “dân tộc” với “chủ nghĩa xã hội”. Như chúng ta đã phân tích, điều đó không phù hợp với “Luận cương” của Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, và cũng không phù hợp với sự tiếp thu của Hồ Chí Minh đối với luận cương ấy của Lenin.
[40] “Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, và Nam kỳ”, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập 1, tr. 466-467.
[41] Stalin đã diễn đạt quan điểm đó của Lenin như sau: “Lênin đã nhìn thấy trong phong trào giải phóng dân tộc ở những nước bị áp bức tiềm năng cách mạng và đã không ngại sử dụng để chống chủ nghĩa đế quốc. Sở dĩ như vậy là vì về mặt khách quan, phong trào đó có lợi cho cuộc cách mạng vô sản toàn cầu. Có những phong trào không có giai cấp vô sản tham gia, cũng không có những cương lĩnh cộng hoà, nhưng nếu có tác dụng làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc thì giai cấp vô sản vẫn ủng hộ. Trái lại cũng có những phong trào, tuy có nguồn gốc vô sản, tự xưng là cách mạng dân chủ, như bọn Đệ Nhị, nhưng khách quan làm lợi cho chủ nghĩa đế quốc thì phải bị tẩy chay. Chỉ ủng hộ những phong trào dân tộc nào làm suy yếu hoặc lật đổ chủ nghĩa đế quốc chứ không phải là duy trì và củng cố nó”. (Staline: Những nguyên lý của chủ nghĩa Lênin (1924). Trong Hélène Carrère: Sđd, tr. 250-253).
Lý luận thì như vậy, nhưng trong thực tế, đối với những người theo chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa quốc tế vô sản chỉ là một khái niệm bình phong: nó được sử dụng để các nước lớn lôi cuốn những nước đàn em vào vòng khống chế của mình; trong khi đó thì những nước nhỏ này lại làm ngược lại: lúc thì để mè nheo xin “giúp đỡ” khi thì để chống lại sự o ép của các đàn anh. Bắt nguồn từ học thuyết của Marx, qua phong trào quốc tế Đệ Tam, khái niệm quốc tế vô sản đã biến dạng thành một ý thức hệ phản mác-xít hoàn toàn: thực chất đó chính là chủ nghĩa dân tộc-cộng sản.
[42] Trong lý luận mác-xít, hai khái niệm này (chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản) loại trừ nhau với tư cách là những ý thức hệ. Để tránh phải đối diện trực tiếp với những khó khăn về lý luận, những nhà ý thức hệ cộng sản Việt Nam thường hết sức nhấn mạnh đến mấy chữ “chủ nghĩa yêu nước” để từ đó “kết hợp” với “chủ nghĩa xã hội” với tham vọng tạo ra một thứ ý thức hệ độc đáo cho Việt Nam (“tư tưởng Hồ Chí Minh”). Nhưng có lẽ cảm thấy khái niệm này hơi gượng ép và có vẻ phi tư tưởng (bất cứ cái gì có cái đuôi isme trong tiếng Pháp, dù có nội dung như thế nào, cũng đều được dịch ra là “chủ nghĩa”), những nhà ý thức hệ ấy đã “sáng tạo” một khái niệm mới mà có lẽ trên thế giới chưa ai biết đến: đó là “tư tưởng yêu nước” hoặc “tư duy yêu nước”!
Khái niệm này đã được nhiều nhà nghiên cứu văn hoá sử dụng hết sức tuỳ tiện, nhưng ồn ào nhất có lẽ là ông Trần Văn Giàu, một người đại diện tiêu biểu cho lý luận giấu mặt về chủ nghĩa dân tộc-cộng sản của Việt Nam: “… chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không phải chỉ là một tình cảm hời hợt, mà là cả một hệ thống tư tưởng rất phong phú, cho đến nay hãy còn nhiều điểm nội dung đang chờ sức khám phá của các nhà sử học và các nhà triết học” (Trần Văn Giàu: Trong dòng chủ lưu của văn học Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước, Nhà xuất bản văn nghệ Tp Hồ Chí Minh, 1983, tr. 14).
[43] Ý “hơn hẳn” này là của George K. Tanham, nhà phân tích chống nổi dậy của nhà nước Mỹ phục vụ cho cuộc chiến tranh với Việt Nam. Xem George K. Tanham: “Nationalism and Revolution”, Asia N. 4, Winter 1966, p. 42.
[44] Hồ Chí Minh: “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin” (1960), viết cho tạp chí Các vấn đề phương Đông (Liên Xô) nhân kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh của V. I. Lênin (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 10, Sđd, tr. 128). Trả lời Charles Fourniau báo L'humanité, nhân kỷ niệm ngày sinh thứ 100 của Lenin (1969), Hồ Chí Minh đã chép lại rất nhiều ý cùng với chữ “cẩm nang” trong bài viết cũ nói trên. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 12, Sđd, tr. 469-476).
[45] “Tất cả những người lao động trên thế giới đều có một mục đích chung là thoát khỏi áp bức bóc lột, được sống sung sướng tự do, tức là thực hiện chế độ cộng sản” (“Thường thức chính trị”, ký Đ.X, 1953, Hồ Chí Minh toàn tập, T. 7, tr. 209).
[46] Một phần của cái mô hình ấy, đã được Stalin tổng kết sau này trong cuốn Những vấn đề kinh tế xã hội ở Liên Xô và cuốn sách này đã được Hồ Chí Minh đem ra giới thiệu với Đảng trong môt khoá họp Ban Chấp hành năm 1953, ngay cả khi chưa hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, bằng những lời lẽ hết sức sùng bái và chỉ thị cho Đảng “phải áp dụng vào hoàn cảnh kháng chiến, kiến quốc của chúng ta”. (“Báo cáo trước hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng”, khóa II, ngày 25-1-1953 về Đại hội 19 cuả Đảng CS Liên Xô (10-1952). Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, tr. 10.
[47] Lời giới thiệu bộ Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1, Sđd, tr. VIII.

 

 Trở lại Trang Lữ Phương

10-6-08